Ghi chép thủa đi học

Bài giảng Xã hội học pháp luật

(bài giảng Xã hội học pháp luật – VB 2, ĐH Luật Hà Nội, 2017)

Đại học Luật Hà Nội

Lớp: K14CCQ (2015 – 2018)

 

BÀI GIẢNG XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT

Thời lượng: 45 tiết

MỤC LỤC

Vấn đề 1: Nhập môn xã hội học pháp luật 1

  1. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của xã hội học pháp luật 1
  2. Nguyên nhân xuất hiện xã hội học pháp luật 1
  3. Một số trào lưu xã hội học pháp luật tiêu biểu. 1
  4. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật 2
  5. Tranh luận: xã hội học PL là ngành khoa học pháp lý hay khoa học xã hội 2
  6. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật 2

III. Các chức năng cơ bản của xã hội học pháp luật 2

  1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu xã hội học pháp luật 2

Vấn đề 2: Phương pháp nghiên cứu của xã hội học pháp luật 2

  1. Khái quát về phương pháp. 3
  2. Phương pháp chung. 3
  3. Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành xã hội học. 3
  4. Các bước tiến hành một cuộc điều tra XHH về các vấn đề, sự kiện, hiện tượng pháp luật 3
  5. Giai đoạn chuẩn bị 4
  6. Giai đoạn tiến hành thu thập thông tin. 9
  7. Giai đoạn xử lý và phân tích thông tin. 11

III. Các phương pháp thu thập thông tin điều tra xã hội học. 11

  1. Phương pháp phân tích tài liệu. 11
  2. Phương pháp quan sát 12
  3. Phương pháp phỏng vấn. 13
  4. Phương pháp an-két 14
  5. Phương pháp thực nghiệm.. 15

Vấn đề 3: Pháp luật trong mối liên hệ với cơ cấu xã hội 16

  1. Nguồn gốc, bản chất xã hội, các chức năng xã hội của PL. 16
  2. Nguồn gốc xã hội của pháp luật 16
  3. Bản chất xã hội của pháp luật 17
  4. Các chức năng xã hội của pháp luật 17
  5. Khái niệm, cơ cấu xã hội và một số khái niệm có liên quan. 18
  6. Khái niệm cơ cấu xã hội 18
  7. Các khái niệm liên quan đến cơ cấu xã hội 18

III. Các phân hệ cơ cấu xã hội và mối liên hệ với pháp luật 19

  1. Cơ cấu xã hội – nhân khẩu và mối liên hệ với pháp luật 19
  2. Cơ cấu xã hội – lãnh thổ. 20
  3. Cơ cấu xã hội – dân tộc. 21
  4. Cơ cấu xã hội – nghề nghiệp. 21
  5. Cơ cấu xã hội – giai cấp. 21
  6. Phân tầng xã hội và mối liên hệ với pháp luật 21

Vấn đề 4: Pháp luật trong mối liên hệ với chuẩn mực xã hội 21

  1. Khái quát về chuẩn mực xã hội 22
  2. Khái niệm chuẩn mực xã hội 22
  3. Phân loại chuẩn mực xã hội 22
  4. Các đặc trưng cơ bản của chuẩn mực xã hội 23
  5. Các loại chuẩn mực xã hội và mối quan hệ của chúng với pháp luật 23
  6. Chuẩn mực chính trị 23
  7. Chuẩn mực tôn giáo. 24
  8. Chuẩn mực đạo đức. 25

Vấn đề 5: Các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật 26

  1. Khái quát về hoạt động xây dựng pháp luật 26
  2. Khái niệm hoạt động xây dựng pháp luật 26
  3. Chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật 26
  4. Quy trình hoạt động xây dựng pháp luật 27
  5. Nội dung nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật 27
  6. Các khía cạnh của hoạt động trước và trong khi xây dựng PL. 27
  7. Các khía cạnh của hoạt động xây dựng PL sau khi PL được ban hành và có hiệu lực thực thi 28
  8. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật 29
  9. Các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta. 29

Vấn đề 6: Các khía cạnh xã hội của hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật 30

  1. Khái quát về hoạt động thực hiện PL và áp dụng PL. 30
  2. Khái niệm hoạt động thực hiện PL. 30
  3. Các hình thức thực hiện PL. 30
  4. Nội dung nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động thực hiện PL và áp dụng PL. 31
  5. Sự phù hợp giữa các quy tắc của chuẩn mực PL với lợi ích của chủ thể thực hiện PL. 31
  6. Cơ chế thực hiện pháp luật 31
  7. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện PL. 33
  8. Vai trò của nhân tố chủ quan trong áp dụng pháp luật 35
  9. Vai trò của các nhân tố khách quan trong hoạt động áp dụng pháp luật 35

III. Các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hiện PL, áp dụng PL ở nước ta hiện nay. 36

  1. Các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hiện PL ở nước ta hiện nay. 36
  2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng PL ở nước ta hiện nay. 36

Vấn đề 7: Sai lệch chuẩn mực pháp luật và hiện tượng tội phạm.. 36

  1. Lý thuyết sai lệch trong xã hội học pháp luật 36
  2. Bản chất xã hội học của sự sai lệch. 36
  3. Thuyết dãn nhãn: sai lệch và tội phạm như là một sự dán nhãn. 37
  4. Khái niệm về sai lệch chuẩn mực pháp luật 37
  5. Định nghĩa về hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội 37
  6. Phân loại hành vi sai lệch chuẩn mực PL. 37
  7. Hậu quả của sai lệch chuẩn mực pháp luật 38

III. Các yếu tố tác động tới sai lệch chuẩn mực pháp luật 39

  1. Các cơ chế của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật 39
  2. Sự không hiểu biết, hiểu biết không đúng, không chính xác các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực PL. 39
  3. Tư duy diễn dịch không đúng, sự suy diễn các chuẩn mực PL thiếu căn cứ logic và sử dụng các phán đoán phi logic. 39
  4. Việc củng cố, tiếp thu các quy tắc, yêu cầu của những chuẩn mực PL đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với PL hiện hành. 39
  5. Cơ chế đi từ quan niệm sai lệch tới việc thực hiện hành vi sai lệch chuẩn mực PL. 40
  6. Các khuyết tật về tâm sinh lý dẫn tới hành vi sai lệch chuẩn mực PL. 40
  7. Cơ chế về mối liên hệ nhân quả giữa các hành vi sai lệch chuẩn mực PL. 40
  8. Hiện tượng tội phạm.. 40
  9. Khái niệm hiện tượng tội phạm.. 40
  10. Các đặc trưng cơ bản của hiện tượng tội phạm.. 40
  11. Các mô hình nghiên cứu xã hội học về hiện tượng tội phạm.. 41
  12. Một số hiện tượng hành vi sai lệch có tính nguy hiểm cao cho xã hội 43
  13. Nghiện ma túy. 43
  14. Say rượu. 43
  15. Côn đồ, càn quấy (Hooligan) 43
  16. Tự tử. 43
  17. Sự tha hóa về đạo đức. 44

VII. Các biện pháp phòng, chống sai lệch chuẩn mực pháp luật 44

  1. Biện pháp tiếp cận thông tin. 44
  2. Biện pháp phòng ngừa xã hội 44
  3. Biện pháp áp dụng hình phạt 44
  4. Biện pháp tiếp cận y – sinh học. 45
  5. Biện pháp tiếp cận tổng hợp. 45

 

 

Ngày 15/01/2017

Giảng viên: thầy Ngọ Văn Nhân (TS)

Tài liệu:

  • Xã hội học pháp luật – Ngọ Văn Nhân
  • Tập bài giảng xã hội học

Vấn đề 1: Nhập môn xã hội học pháp luật

I. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của xã hội học pháp luật

1. Nguyên nhân xuất hiện xã hội học pháp luật

– Thuật ngữ Xã hội học: Sociology – là hệ thống quan điểm, quan niệm, học thuyết về xã hội nói chung và từng lĩnh vực của xã hội nói riêng ==> nói ngắn gọn: Xã hội học là khoa học nghiên cứu về xã hội

– Thuật ngữ xã hội học xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ 19, do Auguste Conte (người Pháp, 1798-1857) sáng tạo ra ==> được coi là người sáng lập, ông tổ, cha đẻ của xã hội học với tư cách là bộ môn khoa học độc lập.

– Mặc dù phải đến những năm 30 của thế kỷ 19 mới xuất hiện ngành xã hội học, nhưng những quan điểm, quan niệm, tư tưởng của xã hội học đã xuất hiện từ thời cổ đại trong hành trình đi tìm tri thức của nhân loại:

+ thời cổ đại:

  • Phương đông: các tư tưởng của những triết gia Trung Quốc như Khổng Tử (đức trị), Tuân Tử, Hàn Phi Tử (pháp trị)
  • Phương tây: trong triết học Hy Lạp cổ đại, điển hình là Platon, Aristot, Heraclite

+ thế kỷ 17: ở Châu Âu xuất hiện vật lý học xã hội, quan niệm xã hội loài người như 1 thể thiên văn độc đáo, trong đó mỗi cá nhân là 1 hành tinh, tương tác với nhau thông qua lực hút, lực đẩy, lực hấp dẫn như trong tự nhiên ==> mục đích để áp dụng các định luật vật lý để giải thích các hiện tượng xã hội

+ thế kỷ 18: xuất hiện trào lưu triết học lịch sử, tập trung nghiên cứu các quy luật vận động lịch sử xã hội và các động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, điển hình là Tinh thần pháp luật (Montesquier) và Khế ước xã hội (Rustxo) ==> đề ra lý thuyết phân quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp

+ thế kỷ 19: hàng loạt phát minh khoa học vĩ đại xuất hiện: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lực, sự phát hiện cấu trúc tế bào, thuyết tiến hóa. Sự phát triển của khoa học tự nhiên đã thúc đẩy sự phát triển của khoa học xã hội ==> tách nghiên cứu về xã hội ra khỏi triết học và trở thành 1 khoa học độc lập. Các tên tuổi nổi bật như Các-mác, T.Parson, M.Weber, …

+ đầu thế kỷ 20: chủ nghĩa tư bản chuyển từ cạnh tranh tự do sang hình thái chủ nghĩa tư bản độc quyền, tuy nhiên hệ thống pháp luật vẫn ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do ==> khủng hoảng luật học tư bản ==> nảy sinh sự tương tác giữa xã hội học và luật học nhằm mục đích giải quyết cuộc khủng hoảng luật học trong xã hội tư bản độc quyền ==> xã hội học pháp luật ra đời

2. Một số trào lưu xã hội học pháp luật tiêu biểu

a. Xã hội học pháp luật thực dụng Mỹ

– Xuất hiện vào những năm 20s của thế kỷ 20

– Đại diện tiêu biểu: R. Pound, chia PL thành 2 loại:

+ pháp luật trên giấy tờ: PL gắn với ý chí của NN ==> bị coi là chứa đựng sự chủ quan, thiên vị, lợi ích nhóm, không phản ánh được hiện thực xã hội

+ pháp luật trong hành động: pháp luật gắn với thực tiễn xã hội

– Khẩu hiệu của trào lưu: hãy chuyển từ PL trên giấy tờ thành PL trong hành động, chuyển từ đời sống ảo sang đời sống thực của PL

b. Trào lưu hiện thực trong luật học Mỹ

– Hoài nghi vào PL do NN làm ra, vì cho rằng trong đó có lợi ích của NN (lợi ích nhóm hiện nay), lợi ích của nhà cầm quyền

– Niềm tin vào PL do tòa án làm ra: cho rằng đáng tin cậy hơn vì đã trải qua thực tiễn ==> pháp luật trong án lệ

c. Trào lưu PL tự do châu Âu

– Hướng tới PL tự nhiên và PL thực định:

+ PL tự nhiên: liên quan đến các quyền cơ bản của con người (quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc)

+ PL thực định: là PL do NN làm ra

– Trào lưu PL tự do đề cao quyền tự do của con người, xuất phát từ Đức, lan rộng ra khắp châu Âu

 

II. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật

1. Tranh luận: xã hội học PL là ngành khoa học pháp lý hay khoa học xã hội

– Có 3 quan điểm:

+ xã hội học PL là 1 lĩnh vực của xã hội học chuyên biệt: các nhà nghiên cứu của Nga (Liên Xô) ủng hộ quan điểm này

+ xã hội học PL là khoa học pháp lý: vì được khởi xướng, ra đời từ các nhà luật học (Montesquire)

+ xã hội học PL là ngành khoa học nằm giữa hoa học xã hội và khoa học pháp lý: là quan điểm của các nhà khoa học nhị nguyên, nhằm dung hòa 2 trường phái trên

2. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật

– Khái niệm xã hội học PL: là 1 ngành xã hội học chuyên biệt, nghiên cứu:

+ những quy luật và tính quy luật của quá trình phát sinh, tồn tại, hoạt động của PL trong xã hội, trong mối liên hệ với các chuẩn mực xã hội khác

+ nguồn gốc, bản chất xã hội, các chức năng xã hội của PL

+ các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng, thực hiện và áp dụng PL

III. Các chức năng cơ bản của xã hội học pháp luật

  1. Chức năng nhận thức
  2. Chức năng thực tiễn
  3. Chức năng dự báo

IV. Ý nghĩa của việc nghiên cứu xã hội học pháp luật

  1. Về tri thức khoa học
  2. Về phương pháp nghiên cứu

 

———————

Ngày 22/01/2017

Giảng viên: thầy Ngọ Văn Nhân (TS)

Vấn đề 2: Phương pháp nghiên cứu của xã hội học pháp luật

I. Khái quát về phương pháp

1. Phương pháp chung

– Khái niệm: Phương pháp là cách thức tiếp cận đối tượng nghiên cứu 1 cách có tổ chức, có hệ thống, được sắp xếp theo 1 trật tự nhất định nhằm đạt tới mục đích nào đó.

– Các phương pháp nghiên cứu:

a. Phương pháp phân tích và tổng hợp

– Phân tích: là chia cái toàn bộ ra thành những bộ phận để đi sâu nhận thức, nghiên cứu các bộ phận

– Tổng hợp: là liên kết, thống nhất các bộ phận đã được phân tích lại nhằm nghiên cứu cái toàn bộ

– Phân tích và tổng hợp là 2 phương pháp thống nhất với nhau, không tách rời nhau

b. Phương pháp quy nạp và diễn dịch

– Quy nạp: đi từ cái riêng đến cái chung

– Diễn dịch: đi từ cái chung đến cái riêng

– Hai phương pháp này có mối liên hệ hữu cơ với nhau, làm tiền đề cho nhau, cái này đòi hỏi cái kia và bổ sung cho cái kia

c. Phương pháp lịch sử và logic

– Phương pháp lịch sử: phải nghiên cứu trong quá trình lịch sử của sự vật hiện tượng, nắm được toàn bộ tính phong phú của nó

– Phương pháp lo-gic: vạch ra bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật hiện tượng

– Hai phương pháp này thống nhất hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau

Ngoài ra còn có các phương pháp khác như phương pháp tiếp cận hệ thống-cấu trúc, phương pháp mô hình hóa, phương pháp so sánh, …

2. Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành xã hội học

– Các nguyên tắc, quy trình nghiên cứu: là hệ thống các nguyên tắc, cách thức là công cụ cho sự khảo sát và nghiên cứ các vấn đề xã hội học, gồm:

+ các nguyên tắc tổ chức triển khai đề tài nghiên cứu: diễn ra như thế nào, tuân thủ các yêu cầu gì, làm thế nào để thu thập được thông tin điều tra 1 cách chính xác

+ cách thức tiến hành 1 cuộc điều tra xã hội học: các công cụ để thu thập thông tin trong các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học

+ các phương pháp chọn mẫu điều tra: nhằm đảm bảo thông tin thu được là trung thực, khách quan, có tính đại diện cao

– Kỹ thuật nghiên cứu: gồm

+ kỹ thuật xây dựng bảng câu hỏi

+ kỹ thuật phân loại và xử lý số liệu

+ kỹ thuật xử lý số liệu bằng máy vi tính: sử dụng phần mềm máy tính

– Các phương pháp thu thập thông tin thông dụng:

+ phương pháp phân tích tài liệu

+ phương pháp quan sát

+ phương pháp phỏng vấn

+ phương pháp an-két

+ phương pháp thực nghiệm

 

II. Các bước tiến hành một cuộc điều tra XHH về các vấn đề, sự kiện, hiện tượng pháp luật

– Thông thường có 3 giai đoạn:

+ chuẩn bị

+ tiến hành thu thập thông tin

+ xử lý và phân tích thông tin

– Cả 3 giai đoạn trên phải được thực hiện theo nguyên tắc trình tự thuận, tức là phải thực hiện tuần tự, lần lượt từng giai đoạn, có thực hiện giai đoạn trước thì mới được thực hiện giai đoạn sau, việc thực hiện giai đoạn trước là tiền đề, cơ sở cho việc thực hiện giai đoạn sau. Ngoài ra, trong 1 giai đoạn lại có nhiều khâu, nhiều bước cụ thể khác nhau, cũng phải được thực hiện theo nguyên tắc trình tự thuận.

1. Giai đoạn chuẩn bị

– Là giai đoạn đầu tiên, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ cuộc điều tra XHH nào

– Ở giai đoạn này, các công việc có nội dung chủ yếu liên quan đến nội dung khoa học của đề tài nghiên cứu. Nó có ảnh hưởng tới sự thành công hay thất bại của cuộc điều tra ==> cần phải chuẩn bị 1 cách công phu, chu đáo, nghiêm túc và khoa học

– Cần đặt ra và trả lời các câu hỏi:

+ thu thập thông tin gì ? (tức là nghiên cứu cái gì) ==> xác định đối tượng nghiên cứu của cuộc điều tra

+ thu thập thông tin đó ở đâu ? (tức là nghiên cứu ai) ==> xác định khách thể của cuộc điều tra

+ thu thập thông tin đó để làm gì ? ==> xác định mục đích nghiên cứu của cuộc điều tra

+ thu thập bằng công cụ, phương tiện gì ? ==> xác định phương pháp thu thập thông tin được sử dụng trong cuộc điều tra

– 9 bước của giải đoạn chuẩn bị:

Bước 1: Xác định vấn đề pháp luật cần nghiên cứu và đặt tên đề tài nghiên cứu

– Bước này nhằm trả lời cho câu hỏi: Nghiên cứu cái gì ?

– Vấn đề PL cần nghiên cứu là bất kỳ vấn đề PL nào đang diễn ra trong thực tiễn cuộc sống, thường xuất phát từ đơn đặt hàng của NN, tổ chức xã hội, hoặc từ chính nhu cầu khảo sát thực tiễn của các nhà khoa học trên cả 2 phương diện là lý luận và ứng dụng. Đó thường là các vấn đề PL có tính thời sự cấp thiết, đang thu hút sự quan tâm của NN, nhân dân, dư luận xã hội, VD thẩm định các dự án luật, tìm hiểu thực trạng các quan hệ xã hội, …

– Vấn đề nghiên cứu thường được xác định là sự sai lệch trong thực tế so với các tài liệu lý luận hoặc các tiêu chí tiêu chuẩn trong xã hội

– Do đó, bất kỳ vấn đề PL cần nghiên cứu nào cũng phải được nghiên cứu trên 2 phương diện: mặt tích cực và mặt tiêu cực của vấn đề

VD: nghiên cứu vấn đề ly hôn: hiện tượng số lượng vụ ly hôn ngày càng nhiều, độ tuổi lý hôn ngày càng trẻ hóa, tuy nhiên không được chỉ nhìn nhận vấn đề ly hon dưới góc độ tiêu cực, mà phải xem xét nó trên 2 phương diện:

+ mặt tích cực: ly hôn là thành quả của cuộc đấu tranh rất dài của việc nữ quyền trên thế giới, cho phép người phụ nữ đứng tên trên đơn ly hôn, nhằm chấm dứt 1 cuộc hôn nhân đã không còn phù hợp. Ly hôn cho phép giải phóng 2 con người không còn yêu thương nhau, không còn chung sống được với nhau.

+ mặt tiêu cực: tổn thương tinh thần, nhất là với phụ nữ và trẻ em, gây ra các tiêu cực với xã hội như trẻ em không được chăm sóc đầy đủ, dễ lâm vào tệ nạn xã hội

– Đặt tên đề tài nghiên cứu: phải thể hiện được 2 yếu tố:

+ đối tượng nghiên cứu

+ khách thể của cuộc điều tra

Tránh việc đặt tên 1 cách chung chung, mập mờ dẫn đến khó xác định đâu là đối tượng nghiên cứu, đâu là khách thể của cuộc điều tra.

VD: Đề tài “Quan niệm về hôn nhân gia đình của sinh viên K14CCQVB2 đại học Luật Hà Nội”, thì:

+ đối tượng nghiên cứu là “Quan niệm về hôn nhân gia đình”

+ khách thể điều tra là “sinh viên K14CCQVB2 đại học Luật Hà Nội”

Bước 2: Xác định mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của cuộc điều tra

– Mục đích nghiên cứu là những tìm kiếm cơ bản, xuyên suốt của đề tài nghiên cứu, giúp trả lời câu hỏi: Nghiên cứu để làm gì ?

– Mục đích nghiên cứu: là những thông tin, kiến thức, hiểu biết khoa học về vấn đề PL, sự hiện hiện tượng PL mà ta sẽ thu được qua thực tế điều tra, là kết quả cuối cùng mà cuộc điều tra phải đạt được.

– Việc xác định mục đích nghiên cứu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì 3 lý do:

+ mục đích nghiên cứu là yếu tố xuyên suốt toàn bộ tiến trình thực hiện cuộc điều tra

+  mục đích nghiên cứu quy định nhiệm vụ và sự lựa chọn phương pháp thu thập thông tin, cách thức tiến hành và xử lý thông tin sau này

+ cùng 1 đề tài nghiên cứu nhưng nếu xác định mục đích nghiên cứu khác nhau thì kết quả sẽ khác nhau

– Nhiệm vụ nghiên cứu là sự cụ thể hóa mục đích nghiên cứu. Tức là để đạt được mục đích nghiên cứu thì cần phải thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu tương ứng.

– Các nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra phải phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

– Giữa mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu phải có sự phù hợp và tương quan hài hòa:

+ nếu xác định quá nhiều nhiệm vụ thì đề tài sẽ bị phân tán, khó hướng theo mục đích đã chọn

+ nếu xác định quá ít nhiệm vụ khó đánh giá mục đích của cuộc điều tra đã được hoàn thành đến mức nào

Bước 3: Xây dựng giả thiết nghiên cứu

– Giả thiết nghiên cứu là những giả định mang tính khoa học về cơ cấu, thực trạng của đối tượng nghiên cứu, là những nhận định ban đầu về thực trạng của vấn đề cần nghiên cứu.

– Nói cách khác, giả thiết nghiên cứu là 1 câu hỏi về thực trạng của vấn đề được nghiên cứu, mang giá trị lo-gic khẳng định hoặc phủ định nhưng chưa biết có được thừa nhận hay bác bỏ đòi hỏi phải được kiểm nhiệm thông qua cuộc điều tra.

– Thông thường giả thuyết nghiên cứu được biểu hiện dưới dạng mệnh đề lo-gic như: nếu thế này thì thế kia; trong điều kiện thế này thì thế kia, …

VD: nếu tất cả các sinh viên văn bằng 2 đại học luật thực sự nghiêm túc học tập thì sự nghiệp xây dựng xã hội pháp quyền của nhà nước ta sẽ thành công

– Lập giả thuyết nghiên cứu là đưa ra 1 nhận thức sơ bộ về vấn đề, sự kiện pháp lý được nghiên cứu

– Lưu ý khi đưa ra giả thiết nghiên cứu:

+ giả thuyết nghiên cứu không được trái với các nguyên tắc, quy định của Hiếp pháp, PL hiện hành

+ giả thuyết nghiên cứu phải dựa trên các luận cứ khoa học chặt chẽ và phải phù hợp tương đối so với tình hình thực tế của vấn đề PL cần nghiên cứu

+ giả thuyết nghiên cứu phải dễ kiểm tra trong quá trình triển khai, nghiên cứu, và trong thực tiễn đời sống PL

– Trong 1 đề tài có thể có nhiều giả thuyết trong đó thường có 1 giả thuyết chính và một số giả thuyết bổ trợ liên quan để bổ sung cho giả thuyết chính

Bước 4: Xây dựng mô hình lý luận, thao tác hóa các khái niệm và xác định các chỉ báo nghiên cứu

– Mô hình lý luận: là hệ thống các phạm trù, khái niệm của xã hội học PL được sắp xếp theo 1 kết cấu lo-gic nội tại chặt chẽ, giúp nhà nghiên cứu đánh giá, khái quát bản chất của vấn đề PL được nghiên cứu. Một mô hình lý luận phải được thể hiện ra bằng ngôn từ, thuật ngữ, khái niệm khoa học và những khái niệm khoa học này phải được mọi người cùng hiểu theo cùng 1 nghĩa để tránh những sự nhầm lẫn có thể xảy ra.

– Thao tác hóa khái niệm trong điều tra xã hội học về 1 vấn đề PL là những thao tác lo-gic nhằm chuyển từ những khái niệm xã hội học, luật học có tính phức tạp, trừu tượng, khó hiểu thành những khái niệm trung gian, cụ thể, đơn giản và dễ hiểu hơn, có thể đo lường được, nhằm giúp mọi người cùng hiểu những khái niệm đó theo cùng 1 nghĩa, tránh những nhầm lẫn không đáng có.

– Xác định các chỉ báo nghiên cứu là quá trình cụ thể hóa các khái niệm thực nghiệm thành các đơn vị (tiêu chí) có thể đo lường và quan sát được. Mỗi phương án trả lời được nêu trong các câu hỏi chính là những tiêu chí phản ánh các chỉ báo nghiên cứu.

VD: Tìm hiểu về trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức. Ở đây khái niệm “trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật” là khái niệm chung chung, trừu tượng ==> cần thao tác hóa khái niệm này, nghĩa là chuyển nó về từng thang đo cụ thể, như trình độ sơ cấp luật, trình độ trung cấp luật, trình độ cao dẳng/đại học luật, trình độ sau đại học luật. Mỗi thang đo này cũng là 1 chỉ báo nghiên cứu.

Bước 5: Lựa chọn phương pháp thu thập thông tin

– Gồm 5 phương pháp:

+ phương pháp phân tích tài liệu có sẵn

+ phương pháp quan sát

+ phương pháp phỏng vấn

+ phương pháp an-két

+ phương pháp thực nghiệm

– Nhà nghiên cứu phải lựa chọn và quyết định sử dụng phương pháp nào là phương pháp chủ đạo trong cuộc điều tra của mình.

– Nguyên tắc lựa chọn phương pháp phụ thuộc vào 2 yếu tố:

+ căn cứ vào mục đích của cuộc điều tra

+ căn cứ vào khả năng tài chính, các trang thiết bị kỹ thuật và các thông tin sẵn có

– Chú ý: không có 1 phương pháp nào là chìa khóa vạn năng, mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng. Do đó thông thường, 1 cuộc điều tra xã hội học sẽ sử dụng phối hợp 1 nhóm các phương pháp có thể bổ sung cho nhau để phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm của mỗi phương pháp.

Bước 6: Soạn thảo bảng câu hỏi

– Trong 5 phương pháp thu thập thông tin, có 2 phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất và đều sử dụng bảng câu hỏi là phương pháp phỏng vấn và phương pháp an-két.

==> việc soạn thảo bảng câu hỏi là bước rất quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và độ tin cậy của thông tin thu thập được.

Khái niệm Bảng câu hỏi: là phương tiện để thu thập thông tin, gồm tổ hợp các câu hỏi – chỉ báo được thiết lập nhằm tìm kiếm, thu thập các thông tin cần thiết liên quan tới đề tài nghiên cứu.

Một bảng hỏi được xây dựng tốt sẽ cho phép thu thập được lượng thông tin đa dạng, phong phú và đầy đủ. Ngược lại, nếu bảng hỏi được xây dựng không tốt sẽ làm giảm khả năng thu thập thông tin, thậm chí xuyên tạc phản ánh sai thực tế.

Các loại câu hỏi thông dụng:

+ câu hỏi đóng dạng đơn giản: là loại câu hỏi chỉ gồm 2 phương án trả lời là Có hoặc Không

VD:  Anh / Chị có thích đọc báo Pháp luật Việt Nam không ?

  1. Có *
  2. Không *

Loại câu hỏi đóng đơn giản này có nhược điểm là dễ hướng người trả lời lựa chọn phương án tích cực (hiện tượng tâm lý tôn vinh hình ảnh cá nhân). Như ở ví dụ trên thì hầu như mọi người sẽ trả lời Có mặc dù có những người chưa từng đọc báo Pháp luật VN.

==> rất hạn chế dùng loại câu hỏi đóng đơn giản này. Thông thường loại câu hỏi này chỉ được dùng ở 1-2 câu hỏi đầu tiên của Bảng hỏi với mục đích để “khởi động”, để “dẫn dụ” người được được hỏi vào những vấn đề thực chất của cuộc nghiên cứu.

+ câu hỏi đóng dạng phức tạp (còn gọi là câu hỏi lựa chọn): là loại câu hỏi có nhiều phương án trả lời theo các mức độ khác nhau để người trả lời lựa chọn, các phương án trả lời phải loại trừ nhau (tức là chỉ được chọn 1 phương án trả lời).

VD:  Anh / Chị có thích ăn thịt chó không ?

  1. Rất thích *
  2. Thích *
  3. Bình thường *
  4. Không thích *
  5. Rất không thích *

Loại câu hỏi đóng phức tạp này thường dùng để đo lường các mức độ đánh giá như thái độ (rất thích-thích-bình thường-không thích), niềm tin (tin tưởng tuyệt đối – rất tin tưởng – bình thường – không tin tưởng), tình cảm (yêu – bình thường – ghét), … trước các vấn đề, sự kiện hiện tượng PL đang nghiên cứu.

+ câu hỏi mở: là câu hỏi chưa có phương án trả lời, người trả lời phải tự suy nghĩ, tự ghi phương án trả lời của mình vào ô trả lời. Về kỹ thuật trình bày, sau khi nêu câu hỏi cần phải dành ra 1 số dòng trống để người trả lời ghi câu trả lời.

VD: Anh / Chị thích làm gì vào thời gian rỗi ?

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –  – – – – – – – –

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –  – – – – – – – –

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –  – – – – – – – –

Ưu điểm của câu hỏi mở: khả năng bao quát rất rộng, cho phép ghi nhận rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau ==> thích hợp với các phỏng vấn sâu dành cho các chuyên gia

Nhược điểm: trả lời dễ lan man, lệch khỏi trọng tâm nghiên cứu của nhà nghiên cứu, khó phân chia câu trả lời theo các phương án đã định, và khó xử lý thông tin ở giai đoạn sau.

+ câu hỏi kết hợp: là loại câu hỏi mở có liệt kê sẵn một số phương án trả lời mang tính định hướng của nhà nghiên cứu, và ở phần cuối dành 1 phương án mở, được trình bày dưới dạng “ý kiến khác”.

VD: Anh / Chị thích làm gì vào thời gian rỗi ?

  1. Đọc sách *
  2. Xem tivi *
  3. Chơi thể thao *
  4. Đi du lịch *
  5. Thăm bạn bè *
  6. Ý kiến khác:

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –  – – – – – – – –

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –  – – – – – – – –

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –  – – – – – – – –

Trên đây là những loại câu hỏi thường được sử dụng trong Bảng câu hỏi, vấn đề đặt ra ở chỗ tùy thuộc vào việc nhà nghiên cứu cần thu thập thông tin gì để lựa chọn loại câu hỏi cho phù hợp. VD cần thu thập thông tin về tình cảm, tâm tư của người khác thì nên sử dụng câu hỏi mở (vì cho phép người được hỏi tự do bày tỏ ý kiến, tình cảm của mình)

Các yêu cầu đối với việc xây dựng câu hỏi, bảng hỏi:

+ trong câu hỏi, cần hạn chế sử dụng những thuật ngữ có tính chất chung chung, mơ hồ, không xác định như: thường xuyên, thỉnh thoảng, đôi khi, …

+ không nên sử dụng những khái niệm không phổ thông, quá khoa học, ít người biết, không sử dụng từ viết tắt, từ địa phương, dân tộc, vùng miền

+ câu hỏi đặt ra phải phù hợp với trình độ học vấn của người trả lời

+ không nên sử dụng câu hỏi hàm ý, biểu thị cách trả lời thế này là đúng, trả lời thế kia là sai

VD: hỏi đảng viên

Bạn có tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng không ?

  1. Có 
  2. Không 

+ kết cấu của bảng câu hỏi không quá phức tạp, rườm rà, dễ gây chán nản cho người được hỏi

Kết cấu của bảng câu hỏi: 1 bảng câu hỏi thông thường có kết cấu 3 phần:

+ phần mở đầu: là lời dẫn nêu tên đề tài, chủ đề PL cần nghiên cứu, mục đích, ý nghĩa của cuộc điều tra, tên cơ quan, cá nhân tiến hành nghiên cứu, hướng dẫn cách thức trả lời kêu gọi, kêu gọi sự hợp tác của người trả lời

+ phần nội dung: là phần trọng tâm, trình bày các câu hỏi liên quan đến nội dung của đề tài, các câu hỏi cần trình bày theo thứ tự từ dễ đến khó, không nên đặt các câu hỏi khó lên đầu để tránh gây tâm lý chán nản cho người trả lời; nên đặt các câu hỏi làm quen, câu hỏi sự kiện lên trước, đặt các câu hỏi về tâm tư, tình cảm ở sau.

+ phần kết thúc: để trình bày 1 số câu hỏi về đặc điểm nhân khẩu của người trả lời (hay thông tin cá nhân người trả lời) như câu hỏi về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, địa bàn cư trú. Những thông tin cá nhân này chỉ nhằm mục tiêu thống kê khoa học.

Nguyên tắc ẩn danh: tuyệt đối không yêu cầu ghi tên, tuổi, địa chỉ của người trả lời, vì có thể dẫn tới người trả lời ngần ngại khi đưa ra quan điểm, ý kiến, thái độ.

Đánh giá cao những thông tin mà người trả lời đã cung cấp, VD “Những thông tin mà quý Ông / Bà cung cấp trên đây có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó giúp cho Đảng và Nhà nước vạch ra đường lối phát triển kinh tế quốc gia …”

Bày tỏ lời cảm ơn đối với người trả lời, VD “Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Ông / Bà, xin gửi đến quý Ông / Bà lời chào trân trọng !”

Bước 7: Chọn mẫu điều tra    

– Trong điều tra xã hội học, cách tốt nhất và chính xác nhất là điều tra tổng thể (tức là điều tra tất cả đối tượng). Tuy nhiên điều này là không thể vì quá tốn kém ==> tiến hành điều tra mẫu ==> trước hết phải thực hiện việc chọn mẫu điều tra. VD điều tra xã hội học trong 1 tỉnh có cả triệu dân thì không thể điều tra thông tin của cả triệu người dân, mà phải chọn ra, thường là 2000 người đại diện để thực hiện điều tra

Mẫu là 1 bộ phận có thể đại diện được cho toàn bộ khách thể nghiên cứu. Khi chọn mẫu cần chú ý đến tính đại diệntính thuần nhất của mẫu, vì đây là 2 yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin thu được:

+ tính đại diện: bao quát được toàn bộ khách thể. VD khảo sát trong 1 tỉnh có 10 đơn vị hành chính, thì mẫu phải có đủ đại diện của 10 đơn vị hành chính đó, hoặc trong tỉnh có vùng đồng bằng, trung du, miền núi, vùng ven biển thì mẫu phải có đủ đại diện cho mỗi vùng đó

+ tính thuần nhất: những người trong cuộc khảo sát càng gần gũi nhau về địa bàn sinh sống, thuần phong mỹ tục, mặt bằng nhận thức, trình độ học vấn thì câu trả lời của họ có sự gần gũi nhau

Điều tra mẫu: là tiến hành thu thập thông tin trên 1 bộ phận mẫu đã lựa chọn, rồi suy rộng kết quả cho tổng thể với 1 độ chính xác nào đó.

Dung lượng mẫu: là số người cần thiết tham gia vào cuộc điều tra để cung cấp thông tin cho nhà nghiên cứu đủ để đạt được độ chính xác đã xác định.

Các phương pháp chọn mẫu: có nhiều phương pháp, nhưng có thể quy về 2 phương pháp:

+ phương pháp ngẫu nhiên đơn giản: chọn ngẫu nhiên, bất kỳ các thành viên trong 1 nhóm xã hội

+ phương pháp ngẫu nhiên cơ học: nhà nhiên cứu phải có danh sách tổng thể các thành viên của nhóm xã hội, sau đó xác định số K = N/n , trong đó N là số lượng người theo danh sách tổng thể các thành viên của nhóm xã hội, n là dung lượng mẫu cần lựa chọn., sau đó trong danh sách thành viên đã được đánh số thứ tự, cứ cách k người lại lấy  người.

VD: 1 lớp học có 100 sinh viên, cần chọn mẫu 20 người để khảo sát, thì K = 100 / 20 = 5 , như vậy mẫu sẽ gồm những sinh viên có số thứ tự 5, 10, 15, …

Bước 8: Dự kiến phương án xử lý thông tin

– Nhà nghiên cứu dự kiến trước sẽ sử dụng bộ máy công thức toán học nào, chương trình phần mềm máy vi tính nào để áp dụng xử lý thông tin thu thập được.

– Chú ý: Phương án xử lý thông tin có ảnh hưởng đến việc xây dựng bảng câu hỏi, đặc biệt khi ứng dụng phần mềm máy vi tính để xử lý thông tin, thông thường việc xây dựng (hình thức) câu hỏi phải phù hợp với khả năng xử lý của chuyên gia phần mềm máy tính.

Bước 9: Điều tra thử, hoàn chỉnh lại toàn bộ bảng câu hỏi và các chỉ báo nghiên cứu

– Toàn bộ 8 bước trên đây của giai đoạn chuẩn bị đều chủ yếu do 1 cá nhân hoặc 1 nhóm nhà nghiên cứu thực hiện, do đó nó ít nhiều mang tính chủ quan, nhất là với bảng câu hỏi. Để khắc phục tính chủ quan đó, cần phải tiến hành điều tra thử trước khi tiến hành điều tra chính thức.

– Điều tra thử là nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá sự hoạt động, khả năng thu nhận thông tin của từng câu hỏi cũng như toàn bộ bảng câu hỏi để xem chúng đạt kết quả tới đâu, có gì khiếm khuyết cần khắc phục hay bổ sung, để mục đích cuối cùng là xây dựng được bảng câu hỏi tối ưu, phù hợp với thực tế của vấn đề.

Ngoài ra, qua điều tra thử, chúng ta có căn cứ để hoàn chỉnh văn phong của bảng câu hỏi, phù hợp với môi trường của địa phương, của vùng miền.

– Khi tiến hành điều tra thử, cần chú ý 2 yêu cầu sau:

+ điều tra thử phải được tiến hành trên đúng bộ phận mẫu đã chọn

+ khoảng cách giữa điều tra thử và điều tra thật chỉ nên là 1 khoảng thời gian ngắn, để tránh những biến động có thể xảy ra ở khách thể của cuộc điều tra

 

2. Giai đoạn tiến hành thu thập thông tin

– Gồm 6 bước công việc:

Bước 1: Lựa chọn thời điểm tiến hành điều tra

– Lưu ý rằng mọi sự kiện chính trị, xã hội quan trọng, hoặc những sinh hoạt cộng đồng đều có tác động nhất định đến trạng thái tư tưởng, tâm lý của đối tượng điều tra, qua đó có ảnh hưởng đến chất lượng thông tin mà họ cung cấp cho nhà nghiên cứu.

==> cần lựa chọn thời điểm tiến hành điều tra sao cho thuận lợi và thích hợp nhất

– Nhìn chung, điều tra XHH nói chung, và điều tra XHH PL nói riêng, không nên diễn ra vào:

+ thời điểm có những hoạt động quan trọng của quốc gia, địa phương: VD ngày quốc khánh, ngày bầu cử, ngày kỷ niệm thành lập tỉnh, …

+ không nên diễn ra vào ngày nghỉ, ngày lễ, ngày tết cổ truyền của dân tộc: VD với người làm văn phòng không nên điều tra vào thời điểm cuối năm và giữa năm (cuối năm có nghỉ tết, giữa năm có nghỉ hè), với người nông dân không nên khảo sát vào thời điểm mùa màng, …

Bước 2: Chuẩn bị kinh phí cho cuộc điều tra

– Một cuộc điều tra xã hội học thường rất tốn kém về kinh phí. Thông thường chi cho các khoản sau:

+ xây dựng chương trình, đề cương nghiên cứu soạn thảo bảng câu hỏi

+ chi cho công tác đánh máy, in ấn tài liệu, giấy tờ, phiếu điều tra

+ chi mua văn phòng phẩm, dịch thuật (tài liệu tiếng nước ngoài)

+ chi công tác phí của điều tra viên, cộng tác viên trong những ngày thu thập thông tin tại địa bàn

+ thù lao cho điều tra viên, cộng tác viên, báo cáo viên, …

+ chi tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo khoa học, nghiệm thu đề tài, …

– Kinh phí có ảnh hưởng lớn đến những người tiến hành điều tra:

+ kinh phí ít có thể làm giảm hứng thú, giảm sự hăng hái, nhiệt tình đối với điều tra viên

+ ngược lại, kinh phí nhiều có thể làm tăng sự hứng thú, sự hăng hái, nhiệt tình của điều tra viên

– Kinh phí ít có thể làm chậm tiến độ điều tra, ngược lại kinh phí nhiều quá gây ra sự lãng phí

Bước 3: Công tác tiền trạm

– Là việc đoàn điều tra cử đại diện của mình đi trước tiếp xúc, liên hệ với cơ quan đoàn thể, chính quyền địa phương nơi sẽ diễn ra cuộc điều tra

– Mục đích của công tác tiền trạm: là tạo ra bầu không khí thân thiện, cởi mở, tin cậy với các cơ quan đoàn thể và nhân dân địa phương.

– Người đại diện có nhiệm vụ phải trình bày được nội dung, mục đích, ý nghĩa, yêu cầu của cuộc điều tra; tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của cơ quan đoàn thể và nhân dân địa phương; cùng với lãnh đạo địa phương bàn bạc thống nhất lịch hoạt động để có sự phối hợp chặt chẽ từ cả 2 phía

– Công tác tiền trạm có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc điều tra:

+ nếu công tác tiền trạm tốt, sẽ có được sự ủng hộ và hưởng ứng nhiệt tình của cơ quan đoàn thể và nhân dân địa hương ==> quần chúng nhân dân sẽ vui lòng cung cấp thông tin một cách đầy đủ cho cuộc điều tra

+ ngược lại, nếu công tác tiền trạm không tốt, cuộc điều tra sẽ gặp khó khăn, chi phí có thể tăng lên mà hiệu quả có thể thấp đi

Bước 4: Lập biểu đồ tiến độ cuộc điều tra

– Căn cứ vào nhận lực của cuộc điều tra, chỉ đạo viên cùng với các điều tra viên xây dựng biểu đồ trong đó xác lập toàn bộ tiến độ thực hiện các công việc cần thiết của cuộc điều tra: nêu rõ ai, làm gì, lúc nào, khi nào phải hoàn thành, kết quả cần đạt được như thế nào

– Việc xây dựng biểu đồ cuộc điều tra một cách khoa học sẽ giúp cho từng thành viên chủ động công việc của mình, đồng thời giúp cho chỉ đạo viên có thể theo dõi, điều phối công việc hiệu quả.

Bước 5: Lựa chọn và tập huấn điều tra viên

– Điều tra viên là những người trực tiếp tiếp xúc với cá nhân, các nhóm đối tượng xã hội để thu thập thông tin liên quan đến đề tài cần nghiên cứu

– Tiêu chuẩn của điều tra viên đối với cuộc điều tra XHH PL:

+ học vấn: phải là người có trình độ học vấn nhất định, có kiến thức và hiểu biết nhất định về PL. Đề tài PL càng phức tạp thì đòi hỏi trình độ, hiểu biết chuyên sâu về PL càng cao.

+ hiểu biết xã hội: phải là người có trình độ hiểu biết xã hội nhất định, am hiểu nhất định về truyền thống, văn hóa, tập quán, lối sống, ngôn ngữ của địa phương đang diễn ra cuộc điều tra

+ công tác quần chúng (dân vận): phải có khả năng làm tốt công tác vận động quần chúng, có khả năng tiếp cận các loại đối tượng xã hội khác nhau, có khả năng ứng xử linh hoạt các tình huống phức tạp có thể xảy ra.

+ ngoại hình: yếu tố ngoại hình của điều tra viên cũng có tác động quan trọng đến quan niệm, tâm lý của những người tham gia trả lời câu hỏi ==> lựa chọn người có hình thức phù hợp, dễ nhìn, dễ gần

– Tập huấn điều tra viên với các nội dung:

+ giới thiệu mục đích, ý nghĩa của cuộc điều tra: để giải thích cho các đối tượng cung cấp thông tin

+ hiểu 1 cách thống nhất các khái niệm, thuật ngữ PL được sử dụng trong bảng câu hỏi

+ biết cách ghi nhận thông tin theo các dạng câu hỏi khác nhau. Đối với phương pháp phỏng vấn, cần trang bị kỹ năng đặt câu hỏi, cách lắng nghe, ghi chép thông tin và kiểm tra tính trung thực, khách quan trong các câu trả lời

+ giới thiệu trước các đặc điểm xã hội của đối tượng trả lời: hiểu về phong tục tập quán, đặc điểm văn hóa, lối sống, ngôn ngữ địa phương

+ giao công việc cụ thể cho từng điều tra viên với tiến độ triển khai thực hiện 1 cách chi tiết

Bước 6: Tiến hành thu thập thông tin

– Là việc phát ra – thu về các phiếu điều tra, hoặc thực hiện phỏng vấn với đối tượng nghiên cứu

– Kết quả của bước này chính là lượng thông tin thu nhận được

 

3. Giai đoạn xử lý và phân tích thông tin

– Giai đoạn này do chính các nhà nghiên cứu đảm nhiệm cùng các chuyên gia lập trình máy tính.

– Kết quả của giai đoạn này chính là sản phẩm cuối cùng của cuộc điều tra: báo cáo khoa học chuyên đề, các giải pháp, kiến nghị về vấn đề PL đang nghiên cứu.

– Gồm 4 bước:

+ tập hợp tài liệu

+ phân tích thông tin thu được

+ kiểm tra các giả thiết đã đặt ra tước đó

+ trình bày báo cáo và xã hội hóa kết quả nghiên cứu

 

——————–

Ngày 19/02/2017

Giảng viên: thầy Ngọ Văn Nhân (TS)

(tiếp bài trước)

III. Các phương pháp thu thập thông tin điều tra xã hội học

1. Phương pháp phân tích tài liệu

a. Nguồn tài liệu

– Tài liệu: được hiểu là nhưng thông tin, tư liệu, tài liệu có sẵn, rất đa dạng, phong phú, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và các lĩnh vực cụ thể nói riêng, và có thể phân chia theo các tiêu chí cụ thể. VD với pháp luật thì có thể phân chia thành các lĩnh vực như kinh tế, dân sự, hình sự, lao động, đất đai, …

– Nguồn tài liệu được cất giữ bằng những hình thức đa dạng, phong phú. Trong đó phổ biến nhất là hình thức xuất bản phẩm, tức là thể hiện dưới hình thức sách, VD bộ luật, giáo trình, báo, tạp chí. Ngoài ra còn có phim, đĩa, hoặc trên Internet

– Nguồn tài liệu có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu tư nhân:

+ nếu nguồn tài liệu thuộc sở hữu NN: khi sử dụng cần trích dẫn nguồn 1 cách tường minh

+ nếu nguồn tài liệu thuộc sở hữu tư nhân: khi sử dụng phải xin phép và phải được sự đồng ý của các giả, và khi tác giả đồng ý cho sử dụng thì phải nêu rõ dẫn nguồn 1 cách tường minh

Chú ý: việc sử dụng tài liệu mà không nêu trích dẫn nguồn, không xin phép tác giả có thể dẫn đến những vấn đề pháp lý về bản quyền tác giả.

b. Đánh giá giá trị nguồn tài liệu

– Đánh giá xem nguồn đó có giá trị khoa học không, có ý nghĩa thực tiễn không, có giá trị đối với hiện tại không hay đã lạc hậu.

– Để có thể đánh giá được tài liệu, cần xem xét các yếu tố:

+ văn cảnh, xuất xứ của tài liệu

+ tác giả tài liệu

+ tên tài liệu, mục đích tài liệu

+ do nhà xuất bản nào phát hành, vào năm nào, tại địa phương nào

+ ảnh hưởng xã hội của tài liệu

+ độ tin cậy của tài liệu

+ …

Trong đó, quan trọng nhất là phân biệt tính xác thực của bản thân tài liệu với độ tin cậy của các thông tin trong tài liệu.

c. Thực chất của phương pháp phân tích tài liệu

– Thực chất của phương pháp phân tích tài liệu là dựa trên nguồn thông tin, tư liệu, tài liệu sẵn có, qua đó thực hiện nghiên cứu, phân tích rút ra thông tin, kết luận mới liên quan đến lĩnh vực, đề tài nghiên cứu.

d. Các hình thức phân tích tài liệu

– Có 2 phương pháp chính:

+ Phương pháp phân tích định tính (còn gọi là phương pháp phân tích cổ điển): đọc tài liệu, tìm ra các ý tưởng hay của tài liệu đó

+ Phương pháp phân tích định lượng: thường được sử dụng khi nhà nghiên cứu cần xử lý 1 số lượng thông tin lớn, thường gắn với các bảng biểu, đồ thị, con số, và hiện nay thường sẽ sử dụng máy vi tính với phương pháp này.

e. Đánh giá về phương pháp phân tích tài liệu

– Ưu điểm:

+ ít tốn nhân công, thời gian, chi phí, mà vẫn cho kết quả có giá trị, có chất lượng

+ ưu thế vượt trội khi nghiên cứu các vấn đề nhạy cảm, tế nhị, phức tạp mà nếu dùng các phương pháp khác sẽ gặp nhiều khó khăn. VD nghiên cứu tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, cờ bạc, bệnh xã hội

– Nhược điểm:

+ thông thường các sự kiện, hiện tượng được phản ánh trong tài liệu diễn ra trong không gian, thời gian khác nhau ==> khó tìm ra nguyên nhân, mối liên hệ giữa các tài liệu, các sự kiện, hiện tượng đó

+ trong tài liệu có thể có những thông tin đã lạc hậu, lỗi thời, không phản ánh thực chất của vấn đề ==> nếu phụ thuộc sẽ dẫn đến không đưa ra được kết quả

 

2. Phương pháp quan sát

a. Khái niệm

– Thực chất của phương pháp quan sát là sự tri giác trực tiếp của nhà nghiên cứu đối với những đặc điểm, dấu hiệu, biểu hiện bên ngoài trong hành vi, hoạt động ở 1 trạng thái nhất định của đối tượng cần quan sát nhằm tìm kiếm, thu thập các thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

VD: Đề tài “Ý thức chấp hành luật giao thông của người Hà Nội”. Với đề tài kiểu này, nếu dùng phương pháp phỏng vấn sẽ không có kết quả chính xác (vì sẽ hầu như mọi người đều khẳng định mình chấp hành luật giao thông tốt). Vì vậy phương pháp lựa chọn là phương pháp quan sát, theo đó lập nhóm người có kinh nghiệm quan sát vào những thời điểm khác nhau (nhất là giờ cao điểm, lúc có cảnh sát giao thông, lúc không có cảnh sát giao thông, …), địa điểm khác nhau (ngã ba, ngã tư, đoạn đường vắng người, …) trong khoảng 1 tuần để ghi chép lại những gì nhìn thấy ==> kết quả thu được sẽ là bức tranh chân thực về ý thức chấp hành luật giao thông của người dân Hà Nội.

– Cần phân biệt giữa quan sát khoa học và quan sát thông thường:

Quan sát khoa học Quan sát thông thường
Sự quan sát luôn tuân theo 1 mục đích nhất định Quan sát không có mục đích rõ ràng
Cần thực hiện theo kế hoạch tương ứng với mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trước đó Không tuân theo kế hoạch, mục tiêu
Phải có sự ghi chép, nhật ký, biên bản quan sát Không có ghi chép
Kết quả đòi hỏi phải kiểm tra lại về tính trung thực, độ tin cậy Kết quả thu nhận được không cần kiểm chứng, không cần kiểm tra tính trung thực

b. Phân loại quan sát

– Có nhiều tiêu chí để phân loại

– Phân loại theo vị trí của người quan sát:

+ quan sát tham dự: người quan sát thâm nhập, tham gia, tham dự cùng với nhóm xã hội cần quan sát để thu thập thông tin. Để có thể quan sát khách quan thì người quan sát phải âm thầm, bí mật thâm nhập vào nhóm xã hội, cố ý thu mình lại, không để những người xung quanh chú ý đến sự hiện diện của mình. Đây là sự quan sát “từ bên trong” nên thông tin thu được có sự tin cậy khá cao.

+ quan sát không tham dự: nhà quan sát đứng bên ngoài nhóm xã hội cần quan sát, đối tượng không biết mình đang bị quan sát ==> thông tin thu được có giá trị, độ tin cậy cao

– Phân loại theo địa điểm:

+ quan sát trong hội trường, phòng thí nghiệm ==> hạn chế số lượng. VD quan sát trong phòng học

+ quan sát ngoài hiện trường ==> nhiều đối tượng tham gia. VD quan sát giao thông

c. Đánh giá

– Ưu điểm:

+ ít tốn nhân công, thời gian, chi phí

+ cho phép nắm bắt, ước lượng 1 cách trực tiếp, đầy đủ những đặc điểm, những mối liên hệ có thực đang diễn ra tự nhiên, bình thường trong cuộc sống

+ cho phép đánh giá nhanh chóng các giả thiết nghiên cứu, nhất là các giả thiết có tính chất mô tả

– Nhược điểm:

+ chỉ bằng quan sát, khó xác định được mục đích, nguyên nhân của hành động, khó nắm bắt thế giới nội tâm, tâm lý của đối tượng quan sát

+ khó tránh khỏi sự áp đặt ý chí chủ quan của người quan sát lên đối tượng

 

3. Phương pháp phỏng vấn

a. Khái niệm

– Phỏng vấn là cuộc nói chuyện được tiến hành theo 1 kế hoạch nhất định thông qua cách thức hỏi – đáp trực tiếp giữa người phỏng vấn và người cung cấp thông tin theo 1 bảng câu hỏi (phiếu điều tra) được chuẩn bị trước, trong đó, người phỏng vấn nên lên các câu hỏi cho đối tượng cần khảo sát, lắng nghe ý kiến trả lời, và ghi nhận kết quả vào phiếu điều tra.

Chú ý: việc vừa lắng nghe, vừa ghi chép là rất khó thực hiện, vì tốc độ ghi chép chậm hơn nhiều so với tốc độ nói. Giải pháp có thêm người ghi tốc ký, tuy nhiên khi có người thứ 3 thì cuộc phỏng vấn có thể không thoải mái, người được phỏng vấn có thể trả lời không trung thực. Giải pháp khác là ghi âm, tuy nhiên phải xin phép trước khi ghi âm, và thực tế rất ít người đồng ý cho ghi âm Giải pháp cuối cùng là “ghi âm trộm”, tuy nhiên chỉ được dùng tệp ghi âm cho mục đích nghe lại và ghi chép lại cuộc phỏng vấn, không được dùng vào việc khác, đặc biệt là việc gây bất lợi cho người được phỏng vấn.

b. Phân loại phương pháp phỏng vấn

– Căn cứ vào diễn biến trình tự thực hiện cuộc phỏng vấn:

+ phỏng vấn tiêu chuẩn hóa: được diễn ra theo đúng trình tự nhất định với 1 nội dung đã vạch sẵn như nhau cho mọi người, người phỏng vấn tiến hành thu thập thông tin theo đúng bảng câu hỏi đã chuẩn bị trước, người phỏng vấn không được tùy tiện thay đổi nội dung hay trình tự câu hỏi, không được bổ sung câu hỏi và không được gợi ý phương án trả lời. Đặc điểm của phỏng vấn tiêu chuẩn là mang tính gò bó, khô khan, cứng nhắc. Phỏng vấn tiêu chuẩn phù hợp với đối tượng trả lời là chính khách, cán bộ lãnh đạo cấp cao (vì mỗi lời nói của những người này đều có sức ảnh hưởng rất lớn).

+ phỏng vấn không tiêu chuẩn (phỏng vấn tự do): là cuộc phỏng vấn diễn ra 1 cách tự do theo 1 chủ đề được xác định trước. Người phỏng vấn tùy theo tình huống cụ thể có thể sử dụng các câu hỏi mà không nhất thiết phải tuân theo 1 trình tự nào, có thể hỏi câu hỏi bổ sung, và có thể đưa ra các quan điểm, bình luận, nhận xét của mình, trao đổi ý kiến qua lại nhằm thu thập được thông tin mong muốn. Phỏng vấn tự do có thể áp dụng cho mọi loại đối tượng phỏng vấn, mọi chủ đề nghiên cứu.

– Căn cứ vào tính chất nông sâu của cuộc phỏng vấn:

+ phỏng vấn thường: về những vấn đề thông thường của đời sống PL, xã hội

+ phỏng vấn sâu: dùng để thu thập quan điểm, ý kiến, đánh giá của các nhà khoa học, chuyên gia pháp lý về các sự kiện, hiện tượng PL có tính phức tạp. Yêu cầu của loại phỏng vấn này là người phỏng vấn phải có trình độ cao, có kinh nghiệm thực tiễn, am hiểu sâu sắc về chủ đề, lĩnh vực phỏng vấn.

– Căn cứ vào số lượng người tham gia:

+ phỏng vấn cá nhân: 1 người hỏi và 1 người trả lời

+ phỏng vấn xã hội: 1 người hỏi và nhiều người trả lời.

Phỏng vấn qua điện thoại: thường được áp dụng khi muốn điều tra nhanh 1 vấn đề nóng bỏng trong xã hội mà dư luận đang quan tâm

c. Trình tự dẫn dắt 1 cuộc phỏng vấn

– Thông thưởng 1 cuộc phỏng vấn trải qua 5 bước:

+ B1: Thiết lập sự tiếp xúc bước đầu, mục đích là tạo không khí thân thiện, cởi mở cho cuộc phỏng vấn, chưa đi vào nội dung chính của cuộc phỏng vấn

+ B2: Củng cố cuộc tiếp xúc bằng các câu hỏi đầu tiên theo kế hoạch, thường là những câu hỏi dễ dàng mang tính khởi động như câu hỏi thông thường về cuộc sống, sinh hoạt, mối quan tâm, … của người được phỏng vấn

+ B3: Chuyển tới nội dung chính của cuộc phỏng vấn, nêu các câu hỏi chính đã chuẩn bị sẵn theo đúng thứ tự, không dẫn dắt trả lời. Người hỏi cần thể hiện thái độ cầu thị, chăm chú lắng nghe, khích lệ người trả lời, nếu người trả lời tỏ thái độ lúng túng, còn e ngại chưa cởi mở thì điều tra viên không nên cố ép phải trả lời mà có thể chuyển qua câu hỏi tiếp theo, để sau đó chờ lúc thích hợp quay trở lại câu hỏi đó.

+ B4: Nhanh chóng thiết lập lại cuộc phỏng vấn khi bị ngắt quãng vì lý do nào đó. Người trả lời vì lý do nào đó có thể từ chối việc trả lời câu hỏi, hoặc trả lời lan man, lệch trọng tâm, hoặc cuộc phỏng vấn bị ngắt quãng vì lý do khách quan (có điện thoại, có người khác vào, …). Khi đó điều tra viên phải biết dừng lại đúng lúc, biết gợi ý, khích lệ hoặc chuyển qua câu hỏi khác.

+ B5: Kết thúc cuộc phỏng vấn: điều tra viên đề nghị người trả lời cung cấp 1 số thông tin cá nhân (cần nhấn mạnh với người trả lời là những thông tin cá nhân chỉ nhằm mục đích thống kê hoa học), cảm ơn người trả lời và nhấn mạnh tầm quan trọng của những thông tin họ đã cung cấp.

d. Đánh giá

– Ưu điểm:

+ phỏng vấn là phương pháp nghiên cứu định tính cơ bản, cho phép thu thập được thông tin về thực tại cũng như quan điểm cá nhân, suy nghĩ, tình cảm của đối tượng điều tra

+ thông tin thu được có chất lượng cao vì tính chân thực và độ tin cậy của thông tin có thể được kiểm nhiệm ngay trong quá trình phỏng vấn

– Nhược điểm:

+ đòi hỏi người phỏng vấn phải là chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ cao, có kỹ năng xử lý các tình huống thực tiễn, am hiểu lĩnh vực cần nghiên cứu, biết cách tiếp cận đối tượng được phỏng vấn ==> khó có thể được triển khai trên quy mô rộng

+ việc tiếp xúc đối tượng phỏng vấn tương đối khó, lý do thường là không muốn bày tỏ quan điểm cá nhân, ngại tiếp xúc, ngại va chạm

 

4. Phương pháp an-két

a. Khái niệm

– Phương pháp an-két là hình thức hỏi – đáp gián tiếp dựa trên bảng câu hỏi (phiếu trưng cầu ý kiến) được soạn thảo trước, theo đó điều tra viên tiến hành phát bảng câu hỏi, hướng dẫn thống nhất cách trả lời, người được hỏi tự đọc các câu hỏi, ghi trả lời vào phiếu hỏi, sau đó gửi lại điều tra viên.

– Đặc trưng của phương pháp an-két là chỉ sử dụng 1 bảng câu hỏi đã được quy chuẩn, dùng để hỏi chung cho mọi người. Và thông thường nhà nghiên cứu không tiếp xúc trực tiếp với người trả lời, mà thông qua cộng tác viên phát câu hỏi, thu thập câu trả lời, và nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu trên thông tin trả lời đó.

Câu hỏi: Về bản chất phương pháp phỏng vấn và phương pháp an-két là 1 vì đều sử dụng bảng câu hỏi để thu thập thông tin.

Trả lời: Sai. Vì phương pháp phỏng vấn là hỏi –đáp trực tiếp giữa nhà nghiên cứu và người trả lời, còn phương pháp an-két là hỏi – đáp gián tiếp, tức là nhà nghiên cứu không tiếp xúc trực tiếp với người trả lời, mà thông qua cộng tác viên phát câu hỏi, thu thập câu trả lời, và nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu trên thông tin trả lời đó.

b. Phân loại

– Căn cứ vào kết cấu câu hỏi:

+ phương pháp an-két đóng: sử dụng câu hỏi đóng (đã có sẵn các phướng án trả lời)

+ phương pháp an-két mở: sử dụng câu hỏi mở (chưa có phương án trả lời)

– Căn cứ vào phương thức phát – thu phiếu an-két:

+ gửi phiếu qua đường bưu điện đến người trả lời và đợi phiếu quay trở về địa chỉ của nhà nghiên cứu: trường hợp này thì dịch vụ bưu điện thay cho vai trò cộng tác viên, đóng vai trò kết nối giữa nhà nghiên cứu với người cung cấp thông tin. Ưu điểm là tiết kiệm chi phí, nhưng cần chú ý cần phát dư số phiếu an-két vì khả năng thư đi không có thư về là khá cao.

+ phát phiếu an-két tại chỗ qua đội ngũ cộng tác viên: cộng tác viên trực tiếp phát ra và thu về phiếu an-két

c. Kết cấu của phiếu an-két

– Thông thường phiếu an-két có kết cấu 3 phần:

+ phần mở đầu: trình bày mục tiêu, ý nghĩa của cuộc điều tra, tên cơ quan nghiên cứu, hướng dẫn cách trả lời, kêu gọi sự hợp tác, giúp đỡ của người trả lời phiếu

+ phần nội dung: các câu hỏi về nội dung của đề tài nghiên cứu

+ phần kết thúc: các câu hỏi về đặc điểm nhân khẩu – xã hội của người trả lời, cảm ơn người trả lời, đánh giá cao thông tin mà người trả lời đã cung cấp.

d. Đánh giá

– Ưu điểm:

+ an-két là phương pháp nghiên cứu định lượng, có thể triển khai trên quy mô rộng, thu thập ý kiến của nhiều người cùng lúc

+ thông thường các chỉ báo (phương án trả lời) trong phiếu an-két đã được mã hóa ==> dễ xử lý thông tin bằng máy tính về sau

– Nhược điểm:

+ việc soạn thảo bảng câu hỏi đòi hỏi chuyên gia có kinh nghiệm, trình độ cao cả về lý luận và thực tiễn

 

5. Phương pháp thực nghiệm

a. Khái niệm

– Trong phương pháp thực nghiệm, nhà nghiên cứu tạo ra 1 sự kiện, tình huống pháp lý gần giống với sự kiện, tình huống thực tế đã xảy ra trong thực tiễn đời sống PL, qua đó quan sát các hoạt động, cách ứng xử của những người tham gia vào sự kiện, tình huống đó nhằm thu thập những thông tin cần thiết cho vấn đề, sự kiện PL cần nghiên cứu, kiểm tra những giả thuyết đang nghiên cứu.

VD: khi nghiên cứu vụ án hình sự, nhà nghiên cứu áp dụng phương pháp thực nghiệm để “dựng lại hiện trường” vụ án để kiểm tra tính xác thực của các tình tiết trong vụ án.

b. Phân biệt phương pháp thực nghiệm với phương pháp quan sát

Phương pháp thực nghiệm Phương pháp quan sát
Giống nhau:

+ đều là hoạt động thực tiễn, có định hướng nhất định nhằm vào 1 hiện tượng xã hội để thu nhận thông tin

+ đều sử dụng tri giác trực tiếp để nhìn, nhận xét tình huống đang diễn ra

Quan sát sự kiện do chính các nhà nghiên cứu tạo dựng nội dung: đã có sự chi phối, can thiệp của người nghiên cứu Là sự quan sát hiện tượng đang diễn ra tự nhiên trong cuộc sống, không có sự can thiệp của ý chí chủ quan của người thực hiện
Tình huống nhân tạo Tình huống tự nhiên


c. Đánh giá

– Ưu điểm:

+ ít tốn kém về thời gian, kinh phí, nhân lực mà vẫn có thể thu được thông tin có chất lượng và độ tin cậy cao

+ nhanh chóng kiểm tra, đánh giá được tính đúng – sai, phù hợp – không phù hợp của giả thuyết nghiên cứu

– Nhược điểm:

+ rất khó tạo ra được sự kiện, tình huống PL giống với thực tế

+ đòi hỏi phải có chuyên gia trình độ cao, nhiều kinh nghiệm thực tiễn

 

Vấn đề 3: Pháp luật trong mối liên hệ với cơ cấu xã hội

I. Nguồn gốc, bản chất xã hội, các chức năng xã hội của PL

(Tài liệu: Giáo trình xã hội học PL, chương 3)

1. Nguồn gốc xã hội của pháp luật

– Pháp luật luôn gắn liền với nhà nước, nhà nước ra đời thì ngay lập tức tạo ra pháp luật.

– Theo lý thuyết thần học: nhà nước và PL do “thượng đế” sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung của xã hội

– Theo lý thuyết nguồn gốc tự nhiên: NN và PL hình thành theo nhu cầu của con người, đây là tư tưởng của những thiết gia nổi tiếng thời cổ đại như Platon, Aristot

– Theo lý thuyết về khế ước xã hội: để tránh những cuộc chiến nguy hiểm của con người chống lại con người, thì con người tập hợp lại với nhau và cùng thỏa thuận nhượng 1 số quyền cho quyền lực chung là NN và PL, đây được gọi là khế ước xã hội, các học giả nổi tiếng của thuyết này là T. Hobben, J. Locke, Montesqieur, J. Rouseau

– Học thuyết bạo lực: NN và PL ra đời do các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc, sự chinh phục của bộ lạc này với bộ lạc khác, đại diện của học thuyết này là E. Đuy-ring, L. Gumplovich

– Theo quan điểm mac-xit:

+ xã hội loài người đã trải qua giai đoạn không có NN và PL là giai đoạn cộng sản nguyên thủy: do công cụ lao động thô sơ, năng suất lao động thấp ==> không có của cải dư thừa ==> không có sở hữu tư nhân, mọi người đều bình đẳng ==> không cần NN và PL

+ xã hội cộng sản nguyên thủy đã trải qua 3 lần phân công lao động xã hội:

  • Lần 1: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Kết quả là của cải làm ra nhiều hơn mức cần thiết ==> dư thừa của cải ==> sở hữu tư nhân xuất hiện ==> phân hóa giàu nghèo
  • Lần 2: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp ==> gia tăng phân hóa giàu nghèo ==> mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt
  • Lần 3: thương nghiệp ra đời. Đây là lần đầu tiên trong xã hội xuất hiện 1 lớp người không trực tiếp tham gia vào sản xuất nhưng lại nắm quyền lãnh đạo sản xuất ==> xã hội phân chia thành giai cấp thống trị và giai cấp bị trị ==> mâu thuẫn không thể điều hòa được ==> nhu cầu cần có 1 lực lượng đứng trên xã hội để gìn giữ trật tự xã hội ==> xuất hiện nhà nước (chính là nhà nước chủ nô)

+ NN cần có công cụ để điều hòa xã hội, đó chính là PL, PL thể hiện ý chí của giai cấp thống trị về duy trì trật tự xã hội.

2. Bản chất xã hội của pháp luật

– Hai quan điểm về PL:

+ pháp luật thực định: (còn gọi là pháp luật trên giấy tờ) gắn với ý chí của NN, do NN ban hành.

Khái niệm PL: PL là hệ thống các quy tắc xử sự do NN ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.

+ pháp luật tự nhiên: là 1 loại chuẩn mực xã hội bên cạnh những chuẩn mực xã hội khác, gắn với lợi ích con người, xuất phát từ nhu cầu của con người

– Quan điểm pháp luật tự nhiên chính là cơ sở lý luận, là nền tảng của xã hội học pháp luật. Theo đó nhận thức về pháp luật phải dựa trên 2 yếu tố:

+ bình đẳng: nhận thức về pháp luật như là mức độ ngang nhau của tự do trong các quan hệ xã hội

+ lợi ích: để điều chỉnh hành vi luôn xuất phát từ phạm trù lợi ích, đây là phạm trù then chốt của xã hội học

– Trong xã hội học pháp luật, pháp luật được hiểu là hình thức thực hiện các lợi ích xã hội theo nguyên tắc bình đẳng. Các lợi ích xã hội được thực hiện dưới hình thức pháp luật khi và chỉ khi nó không làm tổn hại đến lợi ích của chủ thể khác (tức là không được tạo ra đặc quyền, đặc lợi cho lợi ích này mà gây tổn hại đến lợi ích khác)

– Các đặc trưng cơ bản của pháp luật:

+ tính quy định xã hội của PL: đây là đặc trưng cơ bản của PL, theo đó PL trước hết được xem xét như 1 hiện tượng xã hội, nảy sinh từ nhu cầu của xã hội, khi xã hội phát triển, thay đổi thì cũng kéo theo sự phát triển, thay đổi tương ứng của PL ==> bản chất xã hội của pháp luật

+ tính chuẩn mực của pháp luật: PL là hệ thống các quy tắc xử sự, là những “khuôn mẫu” được xác định 1 cách cụ thể, rõ ràng. Thường biểu hiện dưới dạng “cái có thể”, “cái được phép”, “cái không được phép”, “cái bắt buộc thực hiện”, … và nếu vượt ra khỏi phạm vi đó thì bị coi là vi phạm PL.

Chuẩn mực pháp luật khác với các chuẩn mực xã hội khác là nó mang tính cưỡng bức của NN.

+ tính ý chí của pháp luật: PL là ý chí của NN, của giai cấp thống trị

+ tính cưỡng chế của pháp luật: NN thông qua các công cụ quyền lực của mình như quân đội, cảnh sát, nhà tù, … để đảm bảo PL do NN ban hành được thực thi trong thực tế

– Vai trò của pháp luật:

+ PL là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực NN

+ PL là phương tiện để NN quản lý kinh tế, xã hội

+ PL góp phần tạo dựng những quan hệ xã hội mới

+ PL tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia

3. Các chức năng xã hội của pháp luật

Chức năng điều hòa, giải quyết các xung đột: đây là chức năng cơ bản, quan trọng nhất của PL. Xung đột ở đây được hiểu là xung đột giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức, và giữa các tổ chức với nhau. Các chế định PL cho chức năng này là các tòa án (tòa hình sự, tòa dân sự, tòa lao động, tòa hôn nhân gia đình, tòa kinh tế, …).

Chức năng bảo vệ:

+ PL là công cụ để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích NN và nhân dân

+ PL bảo vệ, củng cố và điều chỉnh những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị

+ PL bảo vệ quan hệ sở hữu, điều chỉnh các phương pháp và hình thức phân công lao động, phân phối sản phẩm giữa các thành viên của xã hội

Chức năng giáo dục: các thành viên của xã hội (cá nhân, tổ chức) đều phải tuân thủ PL, qua đó PL tác động vào ý thức con người, chi phối ý thức và điều chỉnh hành vi của cá nhân sao cho phù hợp với ý chí chung của xã hội.

 

II. Khái niệm, cơ cấu xã hội và một số khái niệm có liên quan

(Tập bài giảng XHH, chương II)

1. Khái niệm cơ cấu xã hội

– Cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức xã hội bên trong của hệ thống xã hội nhất định, biểu hiện như là sự thống nhất tương đối bền vững của các nhân tố, các mối liên hệ, các thành phần cơ bản nhất của hệ thống xã hội đó. Những thành tố này tạo ra bộ khung cho tất cả xã hội loài người. Những thành tố cơ bản nhất của cơ cấu xã hội là nhóm xã hội với vai trò, vị thế của nó và các thiết chế.

– Các đặc trưng của cơ cấu xã hội:

+ cơ cấu xã hội không những được xem như là tổng thể, tập hợp các bộ phận cấu thành xã hội, mà còn được xem xét về mặt kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của hệ thống xã hội. Tức là cơ cấu xã hội giải thích được: xã hội được cấu thành từ những thành tố nào, theo kiểu gì, cách thức sắp xếp và liên kết giữa các bộ phận, các thành tố như thế nào.

+ cơ cấu xã hội là sự thống nhất của 2 mặt: các thành phần xã hội và các mối liên hệ xã hội

2. Các khái niệm liên quan đến cơ cấu xã hội

a. Nhóm xã hội

– Đây là khái niệm được dùng phổ biến và rộng rãi trong các nghiên cứu xã hội học nói chung và xã hội học PL nói riêng.

– Nhóm xã hội là 1 khái niệm “linh hoạt”:

+ theo nghĩa rộng: dùng để chỉ 1 giai cấp, 1 tầng lớp xã hội (gồm hàng triệu người). VD tầng lớp công nhân, tầng lớp trí thức

+ theo nghĩa hẹp: dùng để 1 tập thể gồm từ 2 người trở lên mà giữa họ có mối liên hệ nhất định với nhau. VD nhóm xã hội nhỏ nhất là 2 vợ chồng

– Chú ý: nhóm xã hội khác với đám đông người: đám đông người chỉ là tập hợp người ngẫu nhiên đơn thuần, không có mối liên hệ nội tại nào bên trong; còn nhóm xã hội có mối liên hệ với nhau.

– Định nghĩa: Nhóm xã hội là khái niệm dùng để chỉ tập hợp những cá nhân con người có chung quan điểm, sở thích, định hướng, giá trị, chuẩn mực xã hội. Nói cách khác, nhóm xã hội là sự liên kết giữa những con người dựa trên những tiêu chí, tiêu chuẩn liên kết nhất định.

VD: tập thể lớp K14CCQ là 1 nhóm xã hội

– Phân loại nhóm xã hội theo số lượng thành viên:

+ nhóm xã hội lớn

+ nhóm xã hội nhỏ

Chú ý: tính “lớn” hay “nhỏ” chỉ mang tính tương đối.

– Căn cứ vào tính chất của mối liên kết giữa các thành viên:

+ nhóm xã hội chính thức: là nhóm xã hội trong đó mối liên hệ giữa các thành viên mang tính bền vững, ổn định, dài lâu. VD tập thể lớp K14CCQ là 1 nhóm xã hội chính thức

+ nhóm xã hội không chính thức: là nhóm xã hội trong đó mối liên hệ giữa các thành viên chỉ mang tính nhất thời, lỏng lẻo, trong khoảng thời gian nhất định. VD cổ động viên trong 1 trận đấu bóng đá là 1 nhóm xã hội, nhưng chỉ hình thành trong 90 phút của trận đấu, kết thúc trận đấu thì nhóm xã hội đó cũng không còn nữa

 

——————-

Ngày 26/02/2017

Giảng viên: thầy Ngọ Văn Nhân (TS)

(tiếp bài trước)

b. Vị thế xã hội

– Khái niệm: Vị thế xã hội là vị trí (chỗ đứng) của 1 cá nhân trong xã hội và mối quan hệ giữa cá nhân đó với những người xung quanh.

– Thông thường, mỗi cá nhân có nhiều vị thế trong xã hội, nhưng trong số đó, vị thế xã hội quan trọng nhất, giữ vai trò chủ đạo trong việc xem xét đánh giá các đặc điểm xã hội của cá nhân là vị thế do nghề nghiệp của cá nhân đó tạo nên (gọi là vị thế nghề nghiệp)

– Vị thế gồm 2 loại:

+ vị thế tự nhiên: là vị thế gắn với những thiên chức, nhưng đặc điểm cơ bản mà cá nhân không thể tự kiểm soát được. VD giới tính, lứa tuổi, chủng tộc, …

+ vị thế xã hội: là vị thế phụ thuộc vào những đặc điểm mà trong chừng mực nhất định cá nhân có thể kiểm soát được. Vị thế xã hội phụ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu và nghị lực vươn lên của cá nhân.

Trong quá trình cá nhân phấn đấu cho 1 vị thế xã hội nhất định, có các yếu tố ảnh hưởng:

+ địa vị kinh tế: được tạo nên từ tài sản, tiền tài cá nhân (thường được gọi “triệu phú”, “tỷ phú”)

+ địa vị chính trị: quyền lực chính trị mà NN trao cho 1 người (chính trị gia, chính khách, quan chức)

+ địa vị xã hội: năng lực chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp, uy tín của cá nhân đối với tập thể

Chú ý: địa vị kinh tế và địa vị chính trị có thể chuyển hóa cho nhau: từ địa vị chính trị có thể lợi dụng để thu lợi về kinh tế cho bản thân và gia đình (bị coi là “sự tha hóa quyền lực”), ngược lại từ địa vị kinh tế có thể “đầu tư” để có được địa vị chính trị (như ở phương tây hầu hết các chính trị gia đều ít nhất là triệu phú ==> hầu như không có tham nhũng).

Chỉ có địa vị xã hội mới là địa vị đích thực mà 1 cá nhân tạo dựng nên cho mình.

c. Vai trò

– Khái niệm: Vai trò là tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn liền với vị thế xã hội nhất định.

VD: Giảng viên là 1 vị thế xã hội, vai trò của giảng viên thực hiện công việc giảng dạy cho sinh viên, phải tuân thủ các chuẩn mực của 1 giảng viên mà PL và XH đã quy định

d. Thiết chế xã hội

– Khái niệm: Thiết chế xã hội là tập hợp bền vững các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh nhu cầu cơ bản của xã hội.

VD:

+ thiết chế chính trị: đảm bảo việc thiết lập và giữ vững quyền lực chính trị

+ thiết chế pháp luật: đảm bảo trật tự, công bằng xã hội và kiểm soát xã hội

+ thiết chế kinh tế: đảm bảo quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối lợi ích của hàng hóa, dịch vụ

+ thiết chế gia đình: điều hòa hành vi tình cảm, tình dục, nuôi dạy con cái

+ thiết chế giáo dục: truyền thụ những tri thức văn hóa cho thế hệ trẻ, kế thừa và phát triển các tri thức khoa học

+ …

 

III. Các phân hệ cơ cấu xã hội và mối liên hệ với pháp luật

1. Cơ cấu xã hội – nhân khẩu và mối liên hệ với pháp luật

– Cơ cấu xã hội – nhân khẩu là 1 phân hệ của xã hội theo 1 cơ cấu bộ phận được xem xét, đánh giá dựa vào 3 dấu hiệu quan trọng về mặt sinh học – xã hội của con người: giới tính, lứa tuổi, và tình trạng hôn nhân.

a. Cơ cấu giới tính

– Cơ cấu giới tính là sự phân chia tổng số thành viên trong xã hội thành số người nam và số người nữ.

– Xét theo cơ cấu xã hội học giới tính, thì toàn bộ số thành viên trong xã hội chia vùng về cơ bản chỉ gồm 2 bộ phận là namnữ.

– Nam và nữ tồn tại nhiều sự khác biệt về mặt xã hội, như thể chất, năng lực chuyên môn, trình độ học vấn, tâm lý giới tính, vị thế xã hội, vai trò chức năng trong gia đình và ngoài xã hội, … Do đó cần điều chỉnh tỷ lệ cơ cấu giới tính sao cho phù hợp với yêu cầu thực tế của xã hội, và sao cho để cho mỗi nhóm cơ cấu (nam và nữ) có sự đóng góp lớn nhất cho sự phát triển của xã hội.

– Nam, nữ bình quyền được luật hóa: trong Hiến pháp, Luật bình đẳng giới

– Quan hệ nam, nữ được điều chỉnh trong Luật hôn nhân và gia đình

– Giải quyết mâu thuẫn nam, nữ: Luật phòng chống bạo lực gia đình

– Luật lao động: quy định những ưu tiên khi phụ nữ sinh đẻ, về những công việc (nặng nhọc, độc hại) mà phụ nữ không được làm (để bảo vệ sức khỏe nữ giới)

b. Cơ cấu lứa tuổi

– Phân chia các thành viên trong xã hội thành những nhóm tuổi, độ tuổi nhất định tùy theo mục đích của cuộc khảo sát, nghiên cứu.

VD: nghiên cứu về nguồn nhân lực lao động sẽ gồm các nhóm:

+ nhóm chưa đến tuổi lao động: dưới 15 tuổi

+ nhóm trong độ tuổi lao động: nam từ 15 đến 60, nữ từ 15 đến 55

+ nhóm hết độ tuổi lao động: nam trên 60, nữ trên 55

VD: có thể chia thành:

+ nhóm trẻ em: quy định trong Hiến pháp, Luật lao động, Luật bảo vệ trẻ em, Luật giáo dục, Luật hình sự

Tuy nhiên: quy định về độ tuổi được coi là trẻ em hiện đang có sự mâu thuẫn trong các văn bản Luật

+ nhóm thanh niên: quy định trong Hiến pháp, Luật thanh niên, Luật hôn nhân gia đình, Luật nghĩa vụ quân sự, Luật dạy nghề, Luật đại học, Luật lao động, Luật cán bộ công chức, Luật viên chức, …

+ nhóm người cao tuổi: quy định trong Luật người cao tuổi, Luật về hội

– Thông thường nghiên cứu cơ cấu xã hội – nhân khẩu theo đồng thời cả 2 tiêu chí giới tính và lứa tuổi

c. Cơ cấu tình trạng hôn nhân

– Cơ cấu nhân khẩu theo tình trạng hôn nhân là sự phân chia dân số trên 15 tuổi thành các nhóm:

+ Nhóm chưa bao giờ kết hôn

+ Nhóm đang trong hôn nhân: quy định trong Luật Hôn nhân gia đình

+ Nhóm góa: chồng chết hoặc vợ chết

+ Nhóm ly thân: PL VN hiện chưa thừa nhận tình trạng hôn nhân này

+ Nhóm ly hôn: là 1 chế định trong luật hôn nhân gia đình

+ Nhóm liên minh tự do: (thuật ngữ dùng ở phương Tây) nam, nữ chưa vợ chưa chồng sống chung như vợ chồng với nhau, không đăng ký kết hôn, vẫn có con chung (ở VN có 1 thời gian dùng thuật ngữ “hôn nhân thực tế” để chỉ nhóm này)

2. Cơ cấu xã hội – lãnh thổ

– Được phân chia dựa trên hình thức tổ chức cư trú, lao động, sinh hoạt của cộng đồng dân cư. Theo đó về cơ bản có 2 cộng đồng:

+ cộng đồng đô thị

+ cộng đồng nông thôn

– Hai cộng đồng xã hội đô thị và nông thôn có sự khác biệt về điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt, trình độ sản xuất, cơ sở hạ tầng, lối sống, các đặc trưng văn hóa, thiết chế xã hội, …

– Hệ thống luật pháp liên quan đến lãnh thổ là 1 trong những hệ thống luật pháp quan trọng nhất:

+ Vấn đề được lãnh thổ được quy định ngay trong Hiến pháp: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.”

  • Liên quan đến vùng trời: quản lý không phận, quản lý không lưu, hoạt động khai thác bay ==> Luật hàng không dân dụng VN, Các điều ước quốc tế về hàng không mà VN là thành viên
  • Liên quan đến vùng biển: Luật biển VN 2012, Công ước quốc tế về luật biển 1982
  • Liên quan đến vùng đất liền: Luật biên giới quốc gia, Hiến pháp quy định về phân chia địa giới hành chính

+ với cộng đồng đô thị: Luật quy hoạch đô thị 2009,

+ với cộng đồng nông thôn: chưa có Luật nông thôn, chỉ có các văn bản dưới luật

+ ngoài ra còn có Luật tổ chức chính quyền địa phương

3. Cơ cấu xã hội – dân tộc

– Được phân chia dựa trên tiêu chí dân tộc, theo đó VN có cơ cấu 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 87%

– Với các dân tộc thiểu số, ngoài các chính sách hỗ trợ, phát triển dân tộc, cần chú ý vấn đề luật tục của từng dân tộc

4. Cơ cấu xã hội – nghề nghiệp

– Là sự phân chia tổng số thành viên xã hội theo nghề nghiệp mà họ đang thực hiện

– Cơ cấu nghề nghiệp ở đô thị phong phú hơn so với cơ cấu nghề nghiệp ở nông thôn.

– PL điều chỉnh gồm có: Luật lao động, Luật giáo dục đại học, Luật dạy nghề, Luật cán bộ công chức, Luật viên chức, …

5. Cơ cấu xã hội – giai cấp

– Là sự phân chia tổng số thành viên xã hội thành những giai cấp, tầng lớp xã hội tùy theo tính chất, địa vị giai cấp của họ

– Sự xuất hiện của giai cấp, tầng lớp xã hội chính là nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của NN, và từ đó dẫn tới sự ra đời của PL

– Sự ra đời của giai cấp dẫn tới sự hình thành những đảng chính trị đại diện cho giai cấp có lợi ích khác nhau ==> hình thành nên những chính thể NN khác nhau

– Sự xuất hiện của giai cấp, tầng lớp xã hội chính là nguyên nhân dẫn tới sự hình thành hệ thống chính trị, mô hình tổ chức khác nhau của từng quốc gia cụ thể. Có 3 thành phần chủ yếu:

+ đảng chính trị: ở NN tư bản là hình thức đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; còn ở VN là nhất nguyên chính trị, 1 đảng

+ Nhà nước: là thành tố trung tâm của bất cứ chế độ chính trị nào. NN là hiện thân của đảng chính trị, mà đảng chính trị là đại diện cho giai cấp cầm quyền trong xã hội

+ các tổ chức chính trị xã hội hợp pháp: là các tổ chức chính trị được PL thừa nhận, ở VN quan trọng nhất là Mặt trận tổ quốc

 

IV. Phân tầng xã hội và mối liên hệ với pháp luật

– Khái niệm: là sự phân chia tầng lớp trong xã hội.

Một trong những phân tầng xã hội rõ nét nhất là sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Hiện tại VN đang có sự phân hóa giàu nghèo rất cao và ngày càng gia tăng ==> nguy cơ mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt.

– PL liên quan: các chính sách xóa đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng, chính sách đánh thuế người giàu, người có nhiều tài sản, chính sách an sinh xã hội, chính sách bảo hiểm …

 

——————–

Ngày 05/03/2017

Giảng viên: thầy Ngọ Văn Nhân (TS)

Vấn đề 4: Pháp luật trong mối liên hệ với chuẩn mực xã hội

I. Khái quát về chuẩn mực xã hội

1. Khái niệm chuẩn mực xã hội

– Khái niệm: Là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân, nhóm xã hội, trong đó xác định ít hay nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không được phép, hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của mỗi người nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.

– Đặc điểm:

+ chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, do chính các thành viên của xã hội đặt ra nhằm áp đặt cho mỗi hành vi xã hội của mỗi người. Đặc điểm này cho thấy chuẩn mực xã hội là do con người làm ra chứ không phải là do “thánh thần” áp đặt cho con người (loại bỏ nguồn gốc thần học).

+ chuẩn mực xã hội không phải là những quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi chung chung, trừu tượng, mà chúng luôn được xác định 1 cách cụ thể, rõ ràng về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của những khía cạnh liên quan đến hành vi xã hội của con người, bao gồm:

  • Cái có thể: khả năng thực hiện hay không thực hiện 1 hành vi xã hội của con người khi tham gia vào quan hệ xã hội cụ thể. VD thấy 1 người ngã xuống sông có nguy cơ chết đuối thì người phát hiện có nhảy xuống cứu hay không phụ thuộc vào việc người đó có biết bơi hay không, và việc có sẵn lòng cứu người hay không.
  • Cái được phép: những hành vi, hoạt động của con người đã và đang được phép thực hiện trong cuộc sống hàng ngày, phù hợp với các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của chuẩn mực xã hội nói chung và của PL nói riêng khi họ tham gia vào quan hệ xã hội. VD đi bộ trên vỉa hè, công dân được phép kinh doanh tất cả những gì PL không cấm
  • Cái không được phép: những hành vi, hoạt động mà chuẩn mực xã hội cấm cá nhân thực hiện vì chúng gây ra hoặc có thể gây ra sự nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quan hệ xã hội. Thông thường cái không được phép được quy định trong chuẩn mực PL (các quy phạm cấm trong luật Hành chính, luật Hình sự). VD không được vượt đèn đỏ, trông được trộm cắp tài sản của người khác
  • Cái bắt buộc phải thực hiện: những hành vi, hoạt động mà chuẩn mực xã hội buộc cá nhân phải thực hiện, dù muốn hay không muốn, khi tham gia 1 quan hệ xã hội nhất định (thường được quy định trong PL hình sự). VD thấy người khác trong hoàn cảnh nguy hiểm đến tính mạng mà mình có điều kiện cứu giúp thì bắt buộc phải cứu giúp người bị nạn, nếu không thực hiện sẽ phải chịu trách nhiệm theo Điều 102: Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. VD biết người phạm tội đang ẩn nấp mà không tố cáo thì sẽ bị khép tội Không tố giác tội phạm

+ hướng tới thực hiện các chức năng xã hội: góp phần tạo ra sự ổn định xã hội giữ gìn và bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.

2. Phân loại chuẩn mực xã hội

a. Theo tính chất phổ biến

– Chuẩn mực xã hội công khai: được phổ biến công khai, rộng rãi trong xã hội để mọi người cùng biết và tuân thủ, qua đó đảm bảo kỷ cương, an toàn xã hội. VD hiến pháp, các bộ luật sau khi được thông qua thì sẽ được phổ biến, tuyên truyền, giáo dục đến mọi tầng lớp nhân dân

– Chuẩn mực xã hội ngầm ẩn: chỉ được công bố và áp dụng trong phạm vi nhóm xã hội nhất định, để cho các thành viên của nhóm đó thực hiện. VD luật omerta (im lặng hay là chết) của giới maphia ở Ý, theo đó thành viên của maphia Ý khi bị bắt thì phải tuyệt đối im lặng không được khai báo với cảnh sát, nếu không sẽ bị thủ tiêu

b. Theo đặc điểm ghi chép lại hay không ghi chép lại

– Chuẩn mực xã hội thành văn: là loại chuẩn mực xã hội mà các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi được ghi chép lại thành văn bản, gồm 3 loại

+ chuẩn mực pháp luật: các quy phạm PL đều được thể hiện trong các bộ luật và các văn bản PL khác

+ chuẩn mực chính trị

+ chuẩn mực tôn giáo

– Chuẩn mực xã hội bất thành văn: là chuẩn mực xã hội có các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của chúng không được ghi chép thành văn bản, mà được lưu truyền thông qua truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, gồm 3 loại:

+ chuẩn mực đạo đức

+ chuẩn mực phong tục tập quán

+ chuẩn mực thẩm mỹ

3. Các đặc trưng cơ bản của chuẩn mực xã hội

– Chuẩn mực xã hội dùng là công khai hay ngầm ẩn, thành văn hay bất thành văn đều có 3 đặc điểm sau:

+ Tính tất yếu xã hội: các chuẩn mực xã hội đều được hình thành từ chính các thành viên của xã hội nhằm củng cố, bảo vệ, phục vụ nhu cầu, lợi ích của họ. Ngoài ra, chuẩn mực xã hội còn mang tính lợi ích và tính bắt buộc thực hiện, tức là mọi thành viên của xã hội, dù muốn hay không muốn, đều phải tuân thủ theo, nếu không tuân theo sẽ bị phê phán, lên án, hoặc trừng phạt. VD: Hiến pháp là tất yếu xã hội vì xã hội cần có 1 đạo luật gốc, đạo luật cơ bản để trên cơ sở đó xây dựng các đạo luật cụ thể. VD luật hình sự, luật dân sự là tất yếu xã hội vì xã hội cần có chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tế cuộc sống hàng ngày.

+ Tính định hướng của chuẩn mực xã hội theo không gian, thời gian và đối tượng: Ví dụ với các đạo luật luôn có quy định về hiệu lực theo không gian (thường có phạm vi trên toàn lãnh thổ, hoặc 1 bộ phận của lãnh thổ như Luật thủ đô, Luật quy hoặc đô thị, Luật biển), theo thời gian (có hiệu lực kể từ ngày), và theo đối tượng (như Thanh niên, Luật người cao tuổi)

+ Tính vận động, biến đổi của chuẩn mực xã hội theo không gian, thời gian, giai cấp, dân tộc:

  • Chuẩn mực xã hội không mang tính bất biến hay tồn tại vĩnh hằng, mà chúng luôn được đặt trong sự vận động, phát triển cùng với sự phát triển của xã hội, của cộng đồng, và của các nhóm xã hội. Trong quá trình vận động, biến đổi đó, có những chuẩn mực xã hội sau khi hình thành đã phát huy được vai trò, tác dụng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; tuy nhiên cùng với thời gian chúng có thể trở nên lạc hậu, lỗi thời không phù hợp với xã hội hiện tại. Khi đó chúng sẽ tự mất đi hoặc bị thay thế bằng chuẩn mực xã hội mới phù hợp hơn, tiến bộ hơn. VD trước kia có truyền thống đốt pháo nổ ngày tết, sau đó tục lệ này đã bị loại bỏ do sự nguy hiểm của nó
  • Đối với mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước đều có hệ thống các chuẩn mực xã hội riêng của mình tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất của các quan hệ xã hội có tính phổ biến, điển hình trong xã hội ở từng giai đoạn cụ thể. VD trong xã hội chiếm hữu nô lệ thì quan hệ xã hội phổ biến, điển hình là quan hệ chủ nô và nô lệ
  • Có những chuẩn mực xã hội được phổ biến, tuân thủ ở 1 giai cấp, dân tộc này, nhưng lại không được phổ biến, không được tuân thủ ở 1 giai cấp, dân tộc khác. VD một số phong tục, tập quán của dân tộc Thái (như phong tục “chọc sàn”) không được phổ biến, áp dụng với người Kinh. VD trong triều đại nhà Trần có quy định hoàng tộc không được lấy người ngoài mà chỉ được lấy người trong họ.

 

II. Các loại chuẩn mực xã hội và mối quan hệ của chúng với pháp luật

1. Chuẩn mực chính trị

a. Khái niệm chuẩn mực chính trị

– Chuẩn mực chính trị là hệ thống những quy tắc, yêu cầu được xác lập nhằm điều tiết, điều hòa mối quan hệ chính trị – quyền lực giữa các giai cấp, đảng phái chính trị, các tập hợp chính trị khác nhau trong 1 xã hội nhất định hoặc xác lập mối quan hệ chính trị giữa các NN với nhau.

– Hai phương diện của chuẩn mực chính trị:

+ chuẩn mực chính trị đối nội: là các quy tắc, yêu cầu được xác lập nhằm điều tiết, điều hòa mối quan hệ chính trị – quyền lực giữa các giai cấp, đảng phái chính trị, các tập hợp chính trị khác nhau trong phạm vi nội bộ 1 quốc gia

+ chuẩn mực chính trị đối ngoại: các nguyên tắc ngoại giao, các quy tắc ứng xử quốc tế, điều ước quốc tế nhằm điều tiết quan hệ giữa các NN với nhau. Có 2 loại:

  • Quan hệ chính trị song phương: quan hệ chính trị giữa NN này với NN khác
  • Quan hệ chính trị đa phương: quan hệ chính trị giữa 1 NN với 1 nhóm NN khác (VD quan hệ giữa VN với EU), hoặc giữa 1 nhóm NN này với 1 nhóm NN khác, VD quan hệ giữa ASEAN với EU

b. Đặc điểm của chuẩn mực chính trị

– Là loại chuẩn mực xã hội thành văn, nhưng phần lớn các quy tắc, yêu cầu của nó được ghi chép trong các chuẩn mực xã hội thành văn khác, như được ghi chép trong chuẩn mực pháp luật (gồm chủ trương, đường lối, cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền), chuẩn mực tôn giáo (trong các quốc gia Hồi giáo, Thiên chúa giáo), …

Câu hỏi: Tại sao chuẩn mực chính trị lại được thể hiện trong chuẩn mực pháp luật ?

Trả lời: Vì chính trị mà không gắn với quyền lực NN thì chỉ là chính trị “suông”. Do đó chuẩn mực chính trị muốn được thực thi trong thực tế thì phải gắn với bộ máy quyền lực NN, mà bộ máy quyền lực NN lại do PL quy định ==> chuẩn mực chính trị được thể hiện trong chuẩn mực PL

Câu hỏi: Tại sao lại không ban hành luật về đảng tại VN ?

Trả lời: Vì nếu có luật về đảng thì tức là đã luật hóa Điều lệ đảng, mà điều lệ đảng chỉ có hiệu lực trong phạm vi đảng viên, với người không phải là đảng viên thì không có bổn phận phải tuân theo điều lệ đảng

– Ý nghĩa và việc áp dụng các chuẩn mực chính trị chỉ mang tính tương đối: cùng với sự vận động phát triển của xã hội qua các thời kỳ khác nhau mà giá trị, ý nghĩa của các chuẩn mực chính trị chỉ phát huy ở những giai đoạn, thời kỳ lịch sử nhất định. Điều này đúng với cả chuẩn mực đối nội và chuẩn mực chính trị đối ngoại. VD ở nước Mỹ, khi 1 đảng trúng cử và cầm quyền thì sẽ thi hành các chuẩn mực chính trị của mình (tức là thực hiện cương lĩnh, chính sách, đường lối), đến kết nhiệm kỳ nếu không tiếp tục trúng cử thì đảng khác lên cầm quyền, và chuẩn mực chính trị của đảng thất cử sẽ bị mất đi ý nghĩa (được thay thế bằng chuẩn mực chính trị của đảng cẩm quyền mới đắc cử).

c. Mối quan hệ giữa chuẩn mực chính trị và pháp luật

– Chuẩn mực chính trị và PL có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ, gắn bó với nhau, song hành với nhau “như hình với bóng”, trong đó:

+ chính trị là nền tảng, định hướng để hình thành nên bộ máy NN và xây dựng PL

+ ngược lại, PL là công cụ để giai cấp cầm quyền có thể thực hiện quyền lực chính trị của mình

– Chuẩn mực chính trị là định hướng để hình thành, phát triển hệ thống PL của quốc gia.

– Chuẩn mực chính trị trong mối quan hệ giữa các NN với nhau là cơ sở góp phần hình thành nên hệ thống PL quốc tế.

– Ngược lại, PL là công cụ, phương tiện để định hướng, điều chỉnh hoạt động của các giai cấp, đảng phái, nhằm đảm bảo sự ổn định, phát triển của xã hội.

2. Chuẩn mực tôn giáo

a. Khái niệm

– Chuẩn mực tôn giáo là hệ thống các quy tắc, yêu cầu được xác lập dựa trên những tín điều, giáo lý tôn giáo, những quy ước về lễ nghi, sinh hoạt tôn giáo cùng với các thiết chế tôn giáo (nhà thờ, chùa, thánh đường), được ghi chép và thể hiện trong các bộ kinh của các dòng tôn giáo.

– Một tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố:

+ giáo chủ: là lực lượng siêu tự nhiên, được cộng đồng tôn giáo đó tôn thờ, “thần thánh hóa”, trở thành linh thiêng và tác động ngược trở lại tới niềm tin của con người. VD giáo chủ của Phật giáo là Phật tổ Thích ca mâu ni, giáo chủ của Thiên chúa giáo là Chúa Jesus, giáo chủ của Hồi giáo là Thánh Allah.

Chú ý: người đứng đầu giáo hội không phải là giáo chủ: giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo, chỉ có duy nhất, còn người đứng đầu giáo hội là người được các tông đồ bầu lên đứng đầu cộng đồng tôn giáo đó

+ giáo hội: là cơ quan trị sự điều hành hoạt động của cộng đồng tôn giáo trên phạm vi quốc tế và quốc gia

+ giáo dân: là cộng đồng những người có cùng niềm tin vào giáo chủ, giáo lý. VD giáo dân của Thiên chúa giáo được gọi là con chiên, giáo dân của Phật giáo là tăng ni, phật tử, giáo dân của Hồi giáo là tín đồ

+ giáo lý: là những quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi mà tất cả giáo dân phải tuân theo. Giáo lý thường được ghi chép trong các bộ kinh của tôn giáo

Chú ý: phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng:

+ cả tôn giáo và tín ngưỡng đều dựa trên cơ sở niềm tin của con người vào các lực lượng siêu tự nhiên (Chúa, Thượng đế, Ngọc hoàng, Phật, …) và đều dựa trên tâm lý sợ hãi để tuyên truyền

+ tôn giáo khác với tín ngưỡng ở chỗ để được coi là tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố: giáo chủ, giáo hội, giáo dân, giáo lý

b. Đặc điểm của chuẩn mực tôn giáo

– Chuẩn mực tôn giáo là chuẩn mực xã hội thành văn, được thể hiện trong các giáo điều, giáo lý được ghi chép trong các bộ kinh (như Kinh Thánh, Kinh Phật, Kinh Coran).

– Chuẩn mực tôn giáo được hình thành xuất phát từ niềm tin thiêng liêng, sâu sắc của con người vào sức mạnh thần bí của các lực lượng siêu nhiên như Thượng Đế, Đức Phật, Chúa Trời. Chừng nào trong tự nhiên, trong xã hội vẫn còn những sự kiện, hiện tượng thần kỳ, bí ẩn mà khoa học hiện đại chưa thể giải thích, chưa thể làm rõ nguyên nhân thì chừng đó niềm tin tôn giáo vẫn tiếp tục được củng cố, duy trì, lan tỏa và ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của giáo dân trong cộng đồng.

– Chuẩn mực tôn giáo được đảm bảo tôn trọng và thực hiện nhờ 2 yếu tố:

+ niềm tin tôn giáo: là yếu tố đảm bảo cho chuẩn mực tôn giáo được tôn trọng và thực hiện trong các tầng lớp xã hội

+ tâm lý sợ hãi: tâm lý sợ xâm phạm vào những điều “đại kị”, vào “luật nhân quả”, “báo ứng” ==> sợ bị trừng phạt ==> không dám làm điều phạm vào các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực tôn giáo.

Như vậy, khác với chuẩn mực PL, thì chuẩn mực tôn giáo dù không có bất ký sức mạnh cưỡng chế nào thì cũng được con người tuân thủ 1 cách tự nguyện, vô điều kiện.

– Chuẩn mực tôn giáo có những tác động tích cực và cả những tác động tiêu cực đến nhận thức, hành vi của con người:

+ tác động tích cực: đề cao cái thiện, phê phán cái ác, mang tính nhân văn sâu sắc

+ tác động tiêu cực: vấn nạn cuồng tín, phân biệt chủng tộc, kỳ thị dân tộc (như hiện tượng Hồi giáo cực đoan gây ra khủng bố); hoặc tôn giáo “ru ngủ”, làm tê liệt ý chí con người (Lê-nin: Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân) ==> có thể bị giai cấp thống trị sử dụng để áp bức xã hội

c. Mối quan hệ giữa chuẩn mực tôn giáo và pháp luật

– Về nguyên tắc, tôn giáo và pháp luật độc lập với nhau.

– Một số chuẩn mực tôn giáo phù hợp với thuần phong, mỹ tục, với các giá trị đạo đức, pháp luật hiện hành sẽ có tác dụng tích cực đối với việc thực hiện PL của cá nhân

– Ở VN, ngay trong Hiến pháp đã xác định mọi người được tự do tín ngưỡng và tôn giáo, và đã ban hành Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016.

3. Chuẩn mực đạo đức

a. Khái niệm

– Là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi đối với hành vi xã hội của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan niệm chung về công bằng và bất công, về cái thiện và cái ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm và những phạm trù khác thuộc đời sống đạo đức tinh thần của xã hội.

b. Đặc điểm

– Chuẩn mực đạo đức là chuẩn mực xã hội bất thành văn, tức là các quy tắc, yêu cầu của nó không được ghi chép thành văn bản dưới bất kỳ hình thức nào (không tồn tại cái gọi là “bộ luật đạo đức”), mà tồn tại dưới hình thức những giá trị trị đạo đức, những bài học về luân thường đạo lý, phép đối nhân xử thế giữa con người với nhau trong xã hội.

– Chuẩn mực đạo đức mang tính giai cấp, nhưng tính giai cấp của chuẩn mực đạo đức không “mạnh mẽ” như đối với chuẩn mực PL. Tính giai cấp thể hiện ở chỗ, chuẩn mực đạo đức được sinh ra cũng là nhằm củng cố, bảo vệ hay phục vụ cho nhu cầu, lợi ích vật chất, tinh thần của giai cấp nhất định trong xã hội.

– Chuẩn mực đạo đức được tôn trọng và đảm bảo thực hiện bởi 02 nhóm yếu tố:

+ các yếu tố chủ quan: là các yếu tố tồn tại, thường trực trong ý thức của mỗi cá nhân, gồm:

  • thói quen, nếp sống trong sinh hoạt hàng ngày của mỗi người
  • sự tự nguyện, tự giác trong thực hiện hành vi
  • sức mạnh nội tâm, chịu sự chi phối bởi lương tâm của mỗi người

+ các yếu tố khách quan:

  • sự ảnh hưởng của các thuần phong mỹ tục
  • sức mạnh phê phán, lên án của dư luận xã hội

c. Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và pháp luật

– Có mối quan hệ chặt chẽ với nhau:

+ chuẩn mực đạo đức là 1 trong những nguồn cơ bản để hình thành nên hệ thống PL: vì chuẩn mực đạo đức đã có từ trước khi NN hình thành, nên khi NN hình thành và xây dựng PL thì NN lựa chọn những chuẩn mực đạo đức phù hợp và biến chúng thành các quy phạm PL

+ chuẩn mực đạo đức tham gia vào việc đảm bảo cho PL được thực thi trong đời sống xã hội, bởi vì trong nhiều trường hợp rất khó phân biệt đâu là đạo đức, đâu là PL

+ ngược lại, PL vừa là sự ghi nhận các chuẩn mực đạo đức, vừa là công cụ, phương tiện bảo vệ chuẩn mực đạo đức bằng các biện pháp, chế tài cụ thể. PL có vai trò to lớn trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển các quy tắc đạo đức phù hợp, tiến bộ trong xã hội; đồng thời PL có vai trò loại bỏ những chuẩn mực đạo đức đã lạc hậu, lỗi thời.

 

——————–

Ngày 12/03/2017

Giảng viên: thầy Ngọ Văn Nhân (TS)

Vấn đề 5: Các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật

I. Khái quát về hoạt động xây dựng pháp luật

1. Khái niệm hoạt động xây dựng pháp luật

– Xây dựng PL là 1 trong những hoạt động đầu tiên của bất kỳ NN nào kể từ khi được ra đời. Nó tạo ra công cụ pháp lý, phương tiện để NN thể hiện ý chí của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ XH, bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền và của XH nói chung.

– Hoạt động xây dựng PL là toàn bộ quá trình:

+ đề xuất, nêu sáng kiến PL

+ xây dựng

+ phê chuẩn

+ công bố luật

2. Chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật

– Chủ thể của hoạt động xây dựng PL gồm:

+ cơ quan NN có thẩm quyền,

+ tổ chức cá nhân được NN giao quyền

Chú ý: kể cả việc đóng góp ý kiến vào các dự thảo luật cũng được coi là 1 hoạt động xây dựng PL

==> có rất nhiều cơ quan được tham gia vào hoạt động xây dựng PL: các cơ quan Đảng, cơ quan NN, tổ chức chính trị xã hội, đến doanh nghiệp và đông đảo tầng lớp nhân dân

– Tất cả các chủ thể của hoạt động xây dựng PL đều phải tuân thủ Hiến pháp là Luật ban hành VBPL 2015

– Mỗi chủ thể có thẩm quyền ban hành 1 số loại văn bản PL:

+ Quốc hội: Hiến pháp, Luật

+ UBTV Quốc hội: Pháp lệnh, Nghị quyết

+ Chủ tịch nước: Lệnh (lệnh công bố luật, lệnh tổng động viên), Quyết định (thi đua khen thưởng, phong cấp phong hàm, cử đại sứ đi nước ngoài)

+ Chính phủ: Nghị định (có “đầu” và không “đầu”)

+ Thủ tướng Chính phủ: Quyết định

+ Bộ và cơ quan ngang bộ: Thông tư

+ HĐND: Nghị quyết

+ UBND: Quyết định

3. Quy trình hoạt động xây dựng pháp luật

– Thông thường quy trình gồm 4 bước:

+ đề xuất, nêu sáng kiến PL

+ xây dựng dự thảo luật

+ phê chuẩn luật

+ công bố luật (Chủ tịch nước)

 

II. Nội dung nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật

1. Các khía cạnh của hoạt động trước và trong khi xây dựng PL

Gồm 8 nội dung:

a. Mối liên hệ giữa PL với hiện thực xã hội với các nhân tố, yếu tố có ảnh hưởng tới lĩnh vực PL đó

– Nghiên cứu, quan sát nhằm đánh giá những quan hệ đang cần có PL điều chỉnh

– Đây là mối liên hệ giữa PL với thực tiễn đời sống xã hội: 1 đạo luật có được ban hành hay không không phải do NN quyết định mà do yêu cầu, đòi hỏi từ xã hội

– Nghiên cứu mối quan hệ này chính là phần “Tính cấp thiết / Sự cần thiết …” của đạo luật đó. Đây là bước khởi đầu, tạo nền tảng, luận cứ khoa học cho việc xây dựng PL

b. Nghiên cứu, khảo sát, điều tra XHH nhằm đánh giá tình hình, thực trạng, nguyên nhân của quan hệ xã hội đang cần PL điều chỉnh

– Hoạt động này nhằm đảm bảo đạo luật đưa ra là dựa trên nhu cầu xã hội chứ không phải là sản phẩm của sự “võ đoán”, của “trí tưởng tượng”, của sự “thiên kiến chủ quan duy ý chí”.

Thực tế xây dựng PL ở nước ta, có nhiều văn bản PL vừa ra đời đã “chết yểu”, hoặc thậm chí còn chưa có hiệu lực đã bị “chết yểu”. Nguyên nhân chính là thiếu luận cứ thực tiễn để xây dựng pháp luật.

– Khía cạnh này hiện nay đã được luật hóa trong Luật ban hành VBPL 2015, có hiệu lực từ 01/07/2016, trong đó yêu cầu bất kỳ dự luật nào khi trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt phải có 3 báo cáo:

+ Báo cáo khảo sát điều tra xã hội học: đánh giá tổng thể toàn bộ thực trạng tình hình quan hệ xã hội mà dự luật sẽ điều chỉnh

+ Báo cáo tổng kết đánh giá công tác thi hành luật: với trường hợp là luật bổ sung vào 1 đạo luật hiện hành

+ Báo cáo đánh giá tác động dự kiến của văn bản pháp luật với đối tượng điều chỉnh trực tiếp khi đạo luật được ban hành và có hiệu lực thực thi.
c. Tiến hành các hoạt động thu thập thông tin, luận cứ khoa học thực tiễn phục vụ cho việc xây dựng dự thảo luật

– Thực hiện qua các hình thức:

+ tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm

+ phỏng vấn chuyên gia

+ lấy ý kiến lãnh đạo, nhà quản lý, các tầng lớp xã hội, các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan đoàn thể có liên quan

+ sưu tầm, dịch thuật tài liệu pháp luật nước ngoài có liên quan

– Mục đích là để tham khảo, tiếp thu ý kiến, học hỏi trong quá trình xây dựng dự thảo luật.

– Chú ý: tránh việc “bê nguyên” luật nước ngoài vào VN, vì xã hội nào cũng có đặc thù riêng về trình độ phát triển kinh tế xã hội, về văn hóa, tập quán, lịch sử

d. Vấn đề thực nghiệm xã hội học pháp luật

– Đối với những vấn đề, quy phạm PL còn có ý kiến khác nhau, còn gây tranh luận thì trước khi đệ trình cơ quan chức năng biểu quyết thông qua, các nhà xã hội học PL sẽ tiến hành thực nghiệm XHH PL: đưa dự thảo luật đó vào thực tế để xem nó bộc lộ như thế nào, những điểm hay / dở, để từ đó có sự điều chỉnh để dự thảo luật phù hợp hơn

e. Vai trò của nhân dân

– Đảm bảo sự tham gia của các tầng lớp nhân dân vào hoạt động xây dựng PL. Mục đích để phát huy được cao nhất trí tuệ tập thể đóng góp vào quá trình xây dựng dự án luật.

f. Mối liên hệ giữa cương lĩnh chính trị, đường lối của đảng cầm quyền với VBPL dự kiến ban hành

– Nội dung của VBPL dự kiến ban hành với cương lĩnh chính trị, đường lối, lợi ích của chính đảng cầm quyền càng gần thì càng dễ được thông qua

g. Tiến hành thăm dò phản ứng của dư luận xã hội đối với dự luật sắp ban hành

– Dư luận xã hội + thông tin đại chúng = công luận

Công luận là cơ quan quyền lực thứ 4, sau lập pháp, hành pháp, tư pháp

– Nếu dự luật bị công luận phản đối thì gần như không thể trở thành hiện thực. VD dự luật “cộng 2 điểm thi đại học cho bà mẹ VN anh hùng”, dự luật bắt buộc trang bị bình cứu hỏa trên xe ô tô

h. Mối liên hệ giữa cử tri địa phương với đại biểu quốc hội

– Đại biểu quốc hội được bầu theo đơn vị địa phương, nhưng khi đã là đại biểu quốc hội thì trở thành đại diện của nhân dân cả nước ==> có sự mâu thuẫn giữa lợi ích của cử tri địa phương (lợi ích cục bộ) với lợi ích tổng thể của cả nước

2. Các khía cạnh của hoạt động xây dựng PL sau khi PL được ban hành và có hiệu lực thực thi

a. Các biện pháp bảo đảm tính hiệu lực của văn bản PL sau khi được ban hành

– Phải có các chế tài kèm theo. Nếu không có chế tài cụ thể thì luật không có hiệu lực thực tế, hoặc nếu chế tài dù có nhưng không thể thực thi thì luật cũng sẽ không có hiệu lực. VD Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật phòng chống tác hại của thuốc lá, … đều không có chế tài rõ ràng, cụ thể và có tính thực thi ==> hầu như không có hiệu lực trong thực tế

– Ngoài chế tài, cần chú ý có các biện pháp xã hội khác: đảm bảo các điều kiện về kinh tế, chính trị, tạo dựng môi trường văn hóa xã hội, đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, .. để văn bản PL thực sự đi vào cuộc sống

b. Các giải pháp để bảo đảm phát huy được hiệu quả của PL trong điều chỉnh các quan hệ xã hội

– Đánh giá tính hiệu quả của VBPL trong thực tiễn bằng các phương pháp thu thập thông tin xã hội học, như:

+ phân tích tài liệu: các báo cáo, thống kê, các bài báo khoa học, các đề tài nghiên cứu, …

+ phương pháp quan sát: quan sát hành vi PL của các chủ thể PL

+ phương pháp an-kết: thu thập ý kiến, nhận xét, đánh giá về VBPL

+ …

c. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình triển khai, đưa PL vào cuộc sống, bao gồm: kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, …

– Trong thực tế, hiệu lực và hiệu quả của PL phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố nêu trên ==> việc nghiên cứu các yếu tố này là cơ sở để đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả của VBPL

d. Vấn đề thăm dò dư luận xã hội, thông tin đại chúng

– Mục đích để có cái nhìn toàn cảnh về các mặt được và chưa được của VBPL vì về nguyên tắc chỉ khi đưa vào thực tiễn chúng mới bộc lộ hết.

– Nghiên cứu khía cạnh này là cơ sở để đề xuất các sáng kiến, yêu cầu về sửa đổi, bổ sung VBPL

e. Vấn đề biến đối của NN trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa

– PL của VN phải tương thích với PL quốc tế, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo giữ được bản sắc của VN

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật

a. Kỹ năng soạn thảo các dự án luật

– Một hệ thống PL được coi là “hoàn thiện”, một VBPL được coi là “hoàn thiện” khi nó đảm bảo tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp, tính kịp thời và dựa trên nền tảng lập pháp trình độ cao.

Trình độ lập pháp của VN hiện nay nói chung là “kém”, khả năng dự báo PL rất thấp, không có các VBPL đi trước, nhìn xa trông rộng, mà hoạt động xây dựng PL mới chỉ dừng lại ở việc “chờ” cho thực tiễn bộc lộ những yêu cầu cần điều chỉnh thì mới bắt đầu xây dựng VBPL để giải quyết những yêu cầu đó, nếu đã ban hành mà “sai” thì lại sửa đổi, bổ sung.

– Kỹ năng soạn thảo VBPL là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động xây dựng PL, bao gồm các khía cạnh sau:

+ nhận thức của các chủ thể xây dựng PL về tầm quan trọng, sự cần thiết của VBPL cần xây dựng

+ trình độ hiểu biết xã hội, sự am hiểu của chủ thể tham gia xây dựng PL về lĩnh vực mà VBPL sẽ điều chỉnh

+ tri thức, hiểu biết PL và ý thức PL của các chủ thể tham gia xây dựng PL: VD các quy định trong VBPL có hợp hiến không, có trùng lặp với VBPL khác không

+ hoạt động của cơ quan soạn thảo và các cơ quan phối hợp: về nguyên tắc phải tránh “vừa đá bóng vừa thổi còi”, cần độc lập, khách quan trong hoạt động xây dựng VBPL

b. Dư luận xã hội

– Dư luận xã hội là các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội hay của toàn xã hội đối với vấn đề mang tính thời sự, có liên quan đến lợi ích của nhiều người

– Dư luận xã hội là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực đối với quá trình xây dựng VBPL, là 1 trong những cơ sở để NN ban hành các VBPL hợp lòng dân

– Dư luận xã hội có tác dụng phát hiện những thiếu hụt, những khe hở trong các VBPL, giúp NN có biện pháp sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh 1 cách kịp thời.

c. Thông tin đại chúng

– Các phương tiện thông tin đại chúng gồm: báo chí, phát thanh, truyền hình, báo mạng, mạng xã hội, … có tác động rất mạnh mẽ đến hoạt động xây dựng PL, thể hiện ở các khía cạnh:

+ cung cấp thông tin để định hướng dư luận xã hội: luật đã quy định tất cả các dự thảo VBPL đều phải đăng dự thảo toàn văn lên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến các tầng lớp xã hội

+ là hình thức phản hồi từ dư luận xã hội để phản ánh tới các cơ quan chức năng theo chiều “từ dưới lên”

+ có vai trò định hướng dư luận xã hội, hướng đến các vấn đề về lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng cồng

– Hiện nay thông tin đại chúng là là cơ quan quyền lực thứ 4

4. Các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta

Tăng cường thẩm định các dự án luật bằng công cụ xã hội học: đây là yêu cầu bắt buộc đối với mọi VBPL trước khi đệ trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (Luật ban hành VBQPPL 2015); thậm chí ngay ở giai đoạn khởi thảo dự án luật cũng đã cần phải có công tác điều tra bằng xã hội học

Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong tham gia xây dựng PL: quốc hội, chính phủ, cơ quan công an, tòa án, viện kiểm sát, các tổ chức chính trị, xã hội, các tầng lớp nhân dân cần chủ động phát huy vai trò của mình trong tham gia xây dựng PL để đảm bảo cho luật được ban hành phù hợp với yêu cầu và thực tiễn cuộc sống

Hoàn thiện các quy định của PL về hoạt động xây dựng PL, đáp ứng yêu cầu mở rộng nền dân chủ xã hội và phát triển bền vững: trong Luật ban hành VBQPPL 2015 đã thể hiện được khía cạnh mở rộng nền dân chủ trong cây dựng PL, tuy nhiên có sự thiếu sót lớn là chưa đưa khía cạnh phát triển bền vững theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế vào, như chưa hề có các quy định về thích ứng với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường

 

——————

Ngày 19/03/2017

Giảng viên: thầy Ngọ Văn Nhân (TS)

Vấn đề 6: Các khía cạnh xã hội của hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật

I. Khái quát về hoạt động thực hiện PL và áp dụng PL

1. Khái niệm hoạt động thực hiện PL

– Kết thúc quá trình hoạt động xây dựng PL, sản phẩm là hệ thống PL (luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, …), khi này PL mới là “pháp luật trên giấy tờ”, hay còn gọi là “đời sống thứ nhất” của PL

Việc đưa PL vào thực tiễn cuộc sống để chúng phát huy được vai trò, hiệu lực của mình trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong định hướng hành vi xã hội của mỗi con người, thì khi đó PL mới là “pháp luật trong hành động”, hay còn gọi là “đời sống thứ hai” của PL.

Như vậy, hoạt động thực hiện PL chính là việc chuyển “PL trên giấy tờ” thành “PL trong hành động”, hay chuyển PL từ “đời sống thứ nhất” sang “đời sống thứ hai”.

– Khái niệm: Hoạt động thực hiện PL là 1 quá trình hoạt động PL có mục đích nhằm đưa các quy phạm PL đi vào thực tiễn đời sống xã hội, trở thành các hành vi PL thực tế hợp pháp của các chủ thể PL

2. Các hình thức thực hiện PL

Tuân thủ PL (tránh quy phạm cấm): là hình thức thực hiện PL trong đó các chủ thể PL tự kiềm chế, kiểm soát bản thân để không thực hiện những hành vi, hoạt động mà PL cấm.

Những điều PL cấm được quy định chủ yếu trong luật hình sự, luật hành chính, và trong Điều “Những hành vi bị cấm” của các đạo luật khác.

Chú ý: tuân thủ PL chưa làm phát sinh quan hệ PL. Ví dụ: buôn bán ma túy trái phép là tội hình sự, vậy 1 người không buôn bán ma túy (tức là tuân thủ PL) thì sẽ không phát sinh quan hệ với cơ quan NN về việc buôn bán ma túy.

Chấp hành PL (quy phạm về trách nhiệm, nghĩa vụ): là hình thức thực hiện PL trong đó chủ thể chủ động, tự giác, tích cực thực hiện những quy phạm PL liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. VD nam công dân đủ 18 tuổi có nghĩa vụ chấp hành luật nghĩa vụ quân sự; doanh nghiệp có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động ký HĐLĐ

Sử dụng PL (các quy phạm về quyền của công dân):là hình thức thực hiện PL trong đó chủ thể sử dụng những quyền mà PL trao cho. VD quyền ứng cử, quyền bầu cử, quyền bỏ phiếu khi NN trưng cầu dân ý, các quyền về học tập, lao động, nghỉ ngơi, …

Chú ý: việc chủ thể được trao quyền và việc chủ thể đó có sử dụng quyền đó hay không là 2 việc hoàn toàn khác nhau:

+ Có những quyền mà chủ thể được trao quyền có thể không sử dụng, VD như công dân có quyền bầu cử, nhưng nếu không đi bầu cử thì chỉ mất quyền của mình chứ không vi phạm PL.

+ Tuy nhiên, có những quyền mà khi chủ thể được trao quyền không thực hiện thì sẽ vi phạm PL, ví dụ như Tố cáo là quyền của công dân, nhưng nếu thấy người khác phạm tội mà không tố cáo thì sẽ bị khép vào Tội không tố giác tội phạm được quy định trong Luật hình sự.

Áp dụng PL (phải có sự tham gia của cơ quan NN có thẩm quyền): là hình thức thực hiện PL đặc biệt, đòi hỏi phải có sự tham gia của cơ quan NN có thẩm quyền thì PL mới được thực hiện. VD hai bên tranh chấp hợp đồng phải đưa nhau ra Tòa án, lúc này cần có cơ quan NN là Tòa án tham gia thì mới giải quyết được; VD công dân cần công chứng, chứng thực thì cần có sự tham gia của Phòng công chứng (là cơ quan NN có thẩm quyền)

 

II. Nội dung nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động thực hiện PL và áp dụng PL

1. Sự phù hợp giữa các quy tắc của chuẩn mực PL với lợi ích của chủ thể thực hiện PL

– Về nguyên tắc, khi NN ban hành PL thì đều mong muốn thể hiện tính nghiêm minh của PL, đều muốn hướng tới lẽ công bằng, công lý, và rất mong muốn PL do mình ban hành sẽ được “thương tôn”, được đề cao, được thực thi nghiêm túc trong xã hội.

Để đảm bảo PL được thực hiện, NN xây dựng các thiết chế như quân đội, công án, viện kiểm sát, tòa án, nhà tù, trại giam, … Tuy nhiên, bất chấp mong muốn của NN và hệ thống các thiết chế để đảm bảo PL, sự vi phạm PL vẫn xảy ra trong xã hội. Vì sao ?

Vì nếu các quy định của PL càng đáp ứng, thỏa mãn tối đa nhu cầu, lợi ích của các chủ thể chịu tác động thì quy định đó càng được tuân thủ, tôn trọng, và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ. Ngược lại, nếu các quy định của PL “đụng chạm” đến lợi ích, nhu cầu của các chủ thể chịu tác động thì rất dễ nảy sinh tư tưởng, tâm lý thờ ơ, bàng quang, chống đối, bất tuân, và sẵn sàng vi phạm PL.

VD: việc “đòi lại vỉa hè” bắt đầu từ Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh, sau đó lan rộng khắp cả nước thành “phong trào” được nhân dân cả nước nhiệt liệt ủng hộ. Thực chất của việc này không phải là quy định mới của PL, mà quy định về lòng đường, vỉa hè đã có từ lâu nhưng không được thực hiện, nay được các cơ quan chức năng thực hiện.

– Vì vậy, hoạt động thực hiện PL diễn ra như thế nào phụ thuộc vào sự phù hợp, tương thích của PL với vợi ích của chủ thể thực hiện PL.

– Ở nước ta hiện nay, để hoạt động thực hiện PL thực sự đạt hiệu quả, mang tính tự giác, trở thành thói quen, nếp sống trong hành vi của các chủ thể thực hiện PL thì hoạt động xây dựng PL phải được đặt trong lăng kính của lợi ích xã hội và nhu cầu điều chỉnh xã hội.

 

2. Cơ chế thực hiện pháp luật

– Dưới góc độ luật học: cơ chế thực hiện PL được vận hành thông qua các hình thức thực hiện PL:

+ sau khi luật được ban hành, cơ quan chức năng ban hành các văn bản pháp quy để hướng dẫn (nghị định, thông tư, công văn, …)

+ phổ biến, tuyên truyền, giáo dục PL, nâng cao nhận thức PL

– Dưới góc độ xã hội học PL: là những cách thức tác động, những yếu tố ảnh hưởng tới việc cá nhân, nhóm xã hội lựa chọn hành vi thực hiện PL hay không thực hiện PL. Gồm các cơ chế sau:

a. Hiểu biết PL nên thực hiện PL và không hiểu biết PL nên không thực hiện PL

– Cơ chế này chủ yếu đề cao vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tri thức, hiểu biết PL trong hoạt động thực hiện PL: tri thức, hiểu biết PL là phương thức tồn tại của ý thức PL, và ý thức PL đến lượt mình lại thường trực trong mỗi người, và sẽ định hướng, điều khiển hành vi PL của mỗi người.

– Như vậy, để thực hiện PL 1 cách nghiêm túc theo tinh thần thượng tôn PL, đòi hỏi phải có vai trò của tri thức, hiểu biết PL.

VD: ở miền núi, những người dân tộc thiểu số thường có thói quen đốt rừng làm nương rẫy, có thể dẫn đến cháy rừng, họ không biết họ đã vi phạm PL

VD: người dân khu vực hẻo lánh không biết trồng cây cần sa là vi phạm PL

– Tuy nhiên thực tế thì ngay cả những người rất am hiểu về PL (cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ luật) cũng vẫn có nhiều trường hợp vi phạm PL. Ví dụ: có luật sư, tiến sỹ luật nhận tiền để lo lót chạy án, ngụy tạo chứng cứ để giúp tội phạm thoát khỏi sự trừng trị của PL

Ngược lại, với đa số người dân, dù họ có hiểu biết, ít hiểu biết, hay không hiểu biết về PL nhưng vẫn thực hiện PL một cách nghiêm túc và đầy đủ. VD mọi người đều biết ăn trộm, cướp tài sản của người khác là phạm tội nên không thực hiện.

==> đó chính là cơ chế thực hiện PL thứ 2: cơ chế “tâm lý bắt chước” sẽ được trình bày sau đây.

b. Cơ chế tâm lý bắt chước trong thực hiện PL

– Bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các hành vi, tâm trạng, cách suy nghĩ hay ứng xử của người khác hay của 1 nhóm người khác, thông thường đó là (những) người được coi là “thần tượng”, “ngôi sao”. Theo đó cơ chế này thường tạo ra và định hình các “khuôn mẫu hành vi” cho các thành viên trong xã hội noi theo.

– Vì vậy, nếu ta phát huy được cơ chế này để phổ biến, tuyên truyền PL, để lan tỏa những hành vi tuân theo PL thì sẽ có tác dụng rất lớn trong thực hiện PL.

VD: khi vận động quần chúng các dân tộc thiểu số tuân theo PL, cần tác động vào những người có uy tín như già làng, trưởng bản, thầy, … để họ trở thành tấm gương cho quần chúng noi theo

VD: mặc dù xã, phường nào cũng có Trung tâm hỗ trợ tư pháp nhưng đây là cơ quan của NN, và dân hầu như không vào đây, dù có rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong khi đó người dân thường xuyên đi lễ chùa và thường rất lắng nghe các sư thầy, hòa thượng trong chùa ==> khuyến khích các hòa thượng, nhà sư học tập để hiểu biết PL và thực hiện hỗ trợ tư pháp cho nhân dân.

VD: xã phường nào cũng có kho sách về luật pháp, chính sách, về khuyến nông, khuyến ngư, … nhưng hầu như không có ai đọc ==> đề xuất đưa kho sách vào nhà chùa, sư thầy sẽ kiêm luôn thủ thư chi người dân đi lễ chùa ==> sẽ phát huy tác dụng hơn nhiều

– Tuy nhiên, nếu có những “phần tử” lợi dụng sự ảnh hưởng của mình để lôi kéo quần chúng tham gia các hoạt động “chống phá” PL, chống phá NN thì lại có ảnh hưởng tiêu cực. VD một số linh mục lợi dụng tự do tôn giáo tuyên truyền lôi kéo người dân tham gia phản đối các chính sách của NN

– Nói chung đây là cơ chế tích cực trong hoạt động thực hiện PL

c. Cơ chế lây lan tâm lý trong thực hiện PL

– Nói chung đây là cơ chế tiêu cực trong hoạt động thực hiện PL.

– Lây lan tâm lý là sự bột phát, lan truyền tâm lý hứng khởi, kích động từ người này sang người khác một cách tức thời, nằm ngoài sự kiểm soát về ý thức của cá nhân, và do đó thường gây ra các hiện tượng như manh động, quá khích.

VD: việc đua xe trái phép trên đường phố thường bắt đầu từ vài cá nhân, nhưng sau đám đông bị kích động và hình thành cả đoàn đua

VD: những kẻ trộm chó bị dân trong làng, thôn xóm đánh chết, lúc đầu chỉ có 1 vài người bắt được kẻ trộm và đấm đá kẻ trộm, sau đó thường sẽ có vài chục người bị kích động xông vào đánh kẻ trộm, và có thể gây ra cái chết cho kẻ trộm

– Ngược lại, lây lan tâm lý cũng có thể tác động tích cực đến trạng tái tâm lý PL, ví dụ cộng đồng tỏ thái độ phẫn nộ khi có kẻ giết người dã man và đòi hỏi các cơ quan PL phải trừng trị thật nghiêm khắc ==> có tác động tích cực việc hình thành tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với các loại tội phạm

d. Các cơ quan NN có thẩm quyền triển khai áp dụng PL trong thực hiện PL

– Là việc các cơ quan NN có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng bức đối với các chủ thể không muốn thực hiện PL, hoặc trường hợp chủ thể không thể thực hiện PL nếu thiếu sự tham gia của các cơ quan NN có thẩm quyền.

VD: cơ quan chức năng truy bắt tội phạm (là trường hợp chủ thể không muốn thực hiện PL)

VD: hai bên tranh chấp hợp đồng, cần đến cơ quan chức năng (tòa án) để giải quyết (là trường hợp chủ thể không thể thực hiện PL nếu thiếu sự tham gia của các cơ quan NN có thẩm quyền)

e. Tâm lý e ngại, lo sợ bị áp dụng PL nên thực hiện PL

– Đây là cơ chế thường xảy ra trong lĩnh vực hình sự, hành chính. Theo đó các chủ thể có thể do hiểu biết đầy đủ về các quy định của PL, hoặc đã từng nghe thấy, chứng kiến người khác bị áp dụng PL (như phạt tù, phạt tiền) nên tuân thủ, chấp hành PL, không dám vi phạm PL

VD: hiểu rõ buôn bán ma túy là vi phạm PL nên không thực hiện buôn bán ma túy

VD: đã từng chứng kiến kẻ trộm cướp tài sản bị phạt tù nên không dám trôm cướp

==> những chương trình mang tính truyền thông PL như “Tòa tuyên án” trên VTV có ý nghĩa giáo dục PL rất lớn

 

3. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện PL  

a. Yếu tố kinh tế

– Nhìn chung, nếu nền kinh tế – xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện PL, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết PL, ý thức PL của các tầng lớp xã hội. Ngược lại, nếu nền kinh tế – xã hội chậm phát triển, kém năng động có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc PL.

– Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết PL và thực hiện PL  ==> có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện PL của các chủ thể PL (“có thực mới vực được đạo”) (hoặc theo triết học duy vật “vật chất quyết định ý thức”)

+ khi kinh tế – xã hội phát triển, đời sống vật chất của nhân dân được đảm bảo thì nhân dân sẽ tin tưởng vào đường lối kinh tế, chính sách PL ==> hoạt động thực hiện PL sẽ rất thuận lợi

+ khi kinh tế phát triển, đời sống vật chất được cải thiện ==> có điều kiện mua sắm các phương tiện nghe, nhìn ==> các chương trình phổ biến, giáo dục PL dễ dàng đến được với người dân ==> trình độ hiểu hiểu PL sẽ ngày càng được nâng cao ==> hoạt động thực hiện PL sẽ trở thành nhu cầu tự giác, thường trực trong suy nghĩ và hành động của nhân dân.

Ngược lại, đời sống vật chất không đảm bảo, thất nghiệp nhiều thì sẽ là môi trường thuận lợi cho cái xấu phát sinh, cho các hành vi vi phạm PL ==> ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thực hiện PL

+ cơ chế kinh tế hiện nay là cơ chế thị trường định hướng XHCN:

  • Mặt tích cực là tạo ra tư duy năng động, sáng tạo, coi trọng hiệu quả ==> tác động tích cực tới ý thức PL và hành vi thực hiện PL của các chủ thể
  • Mặt tiêu cực là tâm lý sùng bái vật chất, sùng bái đồng tiền, bất chấp các giá trị đạo đức, giá trị PL ==> là nguyên nhân phát sinh các hành vi trái PL như tham nhũng, rửa tiền, buôn lậu, trộm cướp, …

+ việc thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo các nguyên tắc công bằng xã hội (như chính sách an sinh xã hội, chính sách thuế, chính sách phúc lợi dành cho người có công, người thu nhập thấp, người dân tộc thiểu số) là điều kiện cần thiết cho sự ổn định xã hội, củng cố ý thức của con người về các lợi ích chung ==> qua đó tăng cường pháp chế, việc thực hiện PL sẽ trở thành tự giác và chủ động hơn

b. Yếu tố chính trị

– Yếu tố chính trị là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chính trị của xã hội, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động thực hiện PL, đặc biệt là các cá nhân, cơ quan NN có thẩm quyền áp dụng PL (nói chung là các cơ quan công quyền):

+ môi trường chính trị – xã hội ổn định là điều kiện vô cùng thuận lợi cho hoạt động thực hiện PL, vì nó củng cố ý thức và niềm tin chính trị của cán bộ, đảng viên và quần chúng với sự lãnh đạo của Đảng, mà Đảng chủ trương xây dựng NN pháp quyền

+ cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng có ảnh hưởng rất quan trọng tới hoạt động thực hiện PL, vì ở nước ta, sự vận hành của hệ thống PL luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng muốn xây dựng thành công NN pháp quyền thì vấn đề thực hiện PL một cách nhất quán, nghiêm minh từ phía cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân phải luôn đặt lên vị trí hàng đầu

+ ý thức chính trị trong hoạt động thực hiện PL thể hiện ở việc các chủ thể có chức năng áp dụng PL (tức là các cơ quan công quyền) luôn quán triệt, thấm nhuần nhiệm vụ chính trị của mình, lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sát quá trình thực hiện, áp dụng PL, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước ==> điều đó giúp hoạt động thực hiện PL có hiệu quả, đồng thời khơi dậy ý thức trách nhiệm của các chủ thể khác trong thực hiện PL

+ tính chất, mức độ của nền dân chủ xã hội:

  • Nếu xã hội có nền dân chủ rộng rãi, thông tin đa dạng, phong phú, nhiều chiều, thì các tầng lớp nhân dân có thể thẳng thắn, công khai bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình đối với các vấn đề PL, sẵn sàng dùng các quyền chủ thể của mình trong thực hiện PL ==> việc thực hiện PL sẽ được thực hiện một cách tự giác, chủ động
  • Nếu xã hội thiếu dân chủ, thông tin bị bưng bít, công dân không dám nói thật suy nghĩ của mình thì việc thực hiện PL sẽ chỉ là sự miễn cưỡng, đối phó, không hiệu quả

c. Yếu tố văn hóa – lối sống

– Các yếu tố văn hóa, lối sống luôn gắn liền với 1 môi trường văn hóa – xã hội nhất định, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thực hiện PL qua các khía cạnh sau:

+ các phong tục, tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới hoạt động thực hiện PL của các tầng lớp nhân dân, thể hiện rõ nét ở khu vực nông thôn: bên cạnh những phong tục tập quán tích cực như tôn sư trọng đạo, kính trọng người già, … thì cũng có những phong tục tập quán lạc hậu như hội hè, gỗ chạp, cưới hỏi, may chay … tốn kém, lãng phí, những thói hư tật xấu ghanh ghét người thành đạt, tư duy “cục bộ” (như “trai làng ta quyết giữ gái làng ta”), mê cơ bạc, rượu chè, mê tín dị đoan, trọng nam khinh nữ, bạo lực gia đình … Những phong tục, tập quán tiêu cực gây ra khó khăn cho việc thực hiện PL, đồng thời là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến những hành vi trái PL

+ lối sống đô thị và lối sống nông thôn có ảnh hưởng khác nhau đến hoạt động thực hiện PL:

  • Lối sống đô thị có đặc trưng là tích cực, chủ động cao. Tác động tích cực là sự tiếp thu PL diễn ra dễ dàng và nhanh chóng, việc hình thành ý thức PL và thực hiện PL khá thuận lợi. Tác động tiêu cực là rất phức tạp về tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội ==> gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội và hoạt động thực thi PL
  • Lối sống nông thôn có tính cộng đồng rất cao và chặt chẽ. Điểm tích cực là nhờ sự gắn bó của làng xã mà việc tuyên truyền, phổ biến PL khá thuận lợi. Tuy nhiên điểm tiêu cực lại chính là do tính cộng động bị “biến tướng” quá mức, trở thành “chủ nghĩa tập thể”, làm mất đi trách nhiệm của cá nhân, hiện nay đang là điểm gây khó khăn lớn cho việc thực hiện PL (với tâm lý “hòa cả làng”, “trách nhiệm thuộc về tập thể”, “đúng quy trình”)

+ quan hệ dòng họ, thân tộc: tính tích cực là với niềm tự hào về truyền thống của dòng họ sẽ là nhân tố tích cực thúc đẩy việc thực hiện PL một cách tự giác, nhiệt tình, hiệu quả. Điểm tiêu cực là quan hệ thân tộc dễ nảy sinh tính cục bộ, hẹp hòi, ganh đua, ganh ghét nhau giữa các dòng họ, là 1 trong những nguyên nhân gây mất đoàn kết, gây bất ổn trong xã hội, và do đó gây cản trở cho việc thực hiện PL

+ các phương tiện thông tin đại chúng: như báo chí, truyền hình, báo điện tử, mạng xã hội là công cụ để tuyên truyền, phổ biến PL, nêu lên những tấm gương “người tốt việc tốt”, các vụ vi phạm PL bị xử lý nghiêm khắc, … có tác động đến suy nghĩ, nhận thức và hành vi của mỗi người, khiến cho họ thực hiện PL tốt hơn

+ dư luận xã hội: có sự tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện PL. Trong thực tế có những cá nhân coi thường sự trừng phạt của PL, nhưng lại vô cùng sợ hãi trước sự lên án, tẩy chay của dư luận xã hội. Vì vậy dư luận xã hội khiến cho mỗi người luôn phải xem xét, suy nghĩ trước khi thực hiện hành vi PL, và nhờ đó ý thức tôn trọng PL, tuân thủ PL của mỗi chủ thể được nâng cao.

d. Yếu tố pháp luật

– Bản thân PL được sinh ra là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, là cơ sở để các chủ thể thực hiện PL. Tuy nhiên chính các mặt, các khía cạnh của PL cũng ảnh hưởng nhất định tới hoạt động thực hiện PL:

+ văn hóa PL: là hệ thống các giá trị, chuẩn mực PL được kết tinh từ tri thức PL, tình cảm, niềm tin đối với PL và hành vi PL. Văn hóa PL được biểu hiện trực tiếp thông qua hành vi PL. Văn hóa PL là cơ sở, nền tảng, là “khuôn mẫu tư duy”, là “chuẩn mực hành vi” của hoạt động thực hiện PL

+ các yếu tố truyền thống: nét đặc trưng trong các cộng đồng dân cư nước ta, nhất là ở khu vực nông thôn và miền núi, là tính tự quản, thể hiện qua “lệ làng”, “hương ước”. Trong “lệ làng”, dù có nhiều hủ tục, nhiều quan niệm lạc hậu, không phù hợp với hiện tại, nhưng cũng có nhiều quy định có giá trị rất tích cực. Vì vậy việc xây dựng và thực hiện PL cần có sự hài hòa giữa lệ làng và pháp luật, đảm bảo dân chủ tại cơ sở, nhằm giảm thiểu những tiêu cực, thúc đẩy những mặt tích cực của các yếu tố truyền thống, qua đó tạo sự thuận lợi cho hoạt động thực hiện PL.

+ sự tồn tại dai dẳng của PL do chế độ cũ để lại: chế độ cũ ở nước ta là chế độ phong kiến và chế độ thực dân. Mặc dù đã sống trong chế độ XHCN khá lâu nhưng một bộ phận người dân vẫn quan niệm PL là để bảo vệ lợi ích cho “quan chức”, PL chỉ để trừng phạt dân chúng ==> dẫn đến tâm lý sợ hãi PL ==> dẫn đến khó thực hiện PL một cách đúng đắn

+ tình trạng thờ ơ với PL hoặc coi thường PL ở một bộ phận nhân dân có tác động tiêu cực tới việc thực hiện PL ở những người khác: VD một bộ phận không nhỏ cán bộ, lãnh đạo có sự dung túng, bao che lẫn nhau, hoặc bao che cho người thân vi phạm PL; hoặc trù dập những người tố cáo tội phạm,… dẫn đến tâm lý “người ngay sợ kẻ gian”, phát sinh tâm lý nghi ngờ hiệu quả của việc thực hiện PL.

+ ý thức, niềm tin đối với PL của con người có ảnh hưởng rất quan trọng tới việc thực hiện PL: nếu tin tưởng vào PL công bằng, nghiêm minh thì sẽ tự giác thực hiện PL, ngược lại sẽ thờ ơ, chống đối việc thực hiện PL. VD việc xử án gây oan sai hiện nay, việc các vụ án xử không đúng người đúng tội, việc các bản án, quyết định thiếu khách quan, không thấu tính đạt lý hiện nay đang làm xói mòn niềm tin của người dân vào PL, dẫn tới hiệu quả của việc thực hiện PL bị giảm sút (câu nói “quan xử theo lễ, dân xử theo luật”)

+ sự hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc thực hiện PL: khi các chủ thể có hành vi vi phạm PL hoặc không thể tự mình giải quyết được các tranh chấp phát sinh trong quan hệ xã hội, thì rất cần thiết có sự vào cuộc, sự can thiệp kịp thời của cơ quan chức năng để đảm bảo PL được tôn trọng và thực hiện. VD một vụ án xảy ra thì cơ quan điều tra phải nhanh chóng “phá án”, đưa kẻ thủ ác ra trừng trị. VD khi có tranh chấp giữa các chủ thể dân sự, đưa lên tòa án, các chủ thể đều mong muốn cơ quan xét xử đưa ra quyết định công bằng, thấu tình đạt lý để các bên tuân theo

 

4. Vai trò của nhân tố chủ quan trong áp dụng pháp luật

(chương III, trang 369)

– Về nguyên tắc, khi đưa ra quyết định áp dụng PL, các cá nhân (nhà chức trách: thẩm phán, kiểm sát viên, chủ tịch UBND, công tố viên, cán bộ công chức hành chính …) có thẩm quyền phải công bằng, vô tư, khách quan, không xuất phát từ động cơ cá nhân. Tuy nhiên vì đều là con người nên đều không tránh khỏi các nhân tố chủ quan.

– Có 2 nhân tố chủ quan chủ yếu trong áp dụng PL:

+ yếu tố tâm lý: như tâm trạng, niềm tin, quan điểm, cảm xúc, … của cá nhân có thẩm quyền áp dụng PL có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xét xử tại phiên tòa hay ban hành các quyết định hành chính. VD các mức hình phạt đều có khung, việc quyết định mức hình phạt cao hay thấp trong khung phụ thuộc rất nhiều vào bản thân của thẩm phán

+ năng lực chuyên môn: là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức, hiểu biết PL, kinh nghiệm nghề nghiệp, kinh nghiệm sống, các quan hệ riêng tư, … của những người có thẩm quyền áp dụng PL đều có tác động nhất định đến phán quyết của thẩm phán, đến quyết định của cơ quan hành chính. VD thường thấy là ở những vùng sâu vùng xa, trình độ của lãnh đạo các cơ quan hành chính còn hạn chế nên thường hay mắc lỗi ban hành nhưng văn bản hành chính không đúng quy định của PL hoặc không hợp tình hợp lý

5. Vai trò của các nhân tố khách quan trong hoạt động áp dụng pháp luật

(chương III, trang 371)

Có 2 yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng PL:

– Những hạn chế, bất cập của hệ thống PL hiện hành: nguyên nhân là do PL không theo kịp với sự vận động phát triển liên tục của xã hội. Việc chưa có quy phạm PL điều chỉnh, hoặc quy phạm PL đã lạc hậu, bất cập sẽ gây khó khăn cho cá nhân, cơ quan có thẩm quyền áp dụng PL, dẫn đến hiệu quả áp dụng PL không như mong muốn. VD quy định về tội gây ô nhiễm môi trường chưa rõ ràng, chưa nghiêm khắc dẫn tới việc xử lý không triệt để và hậu quả là tội phạm về môi trường ngày một gia tăng.

– Áp lực từ dư luận xã hội: chức năng cơ bản của dư luận xã hội là chức năng giám sát, tư vấn, thể hiện rõ nét nhất khi đối tượng phán xét là hoạt động của cơ quan NN, chính quyền các cấp, trong đó có cơ quan thực thi và bảo vệ PL. Dư luận xã hội thường lên tiếng tố cáo, tố giác những hành vi phạm tội, giúp cơ quan chức năng 1 cách tích cực trong công tác điều tra, phá án. Dư luận xã hội bày tỏ sự đồng tình với những bản án, quyết định đúng người đúng tội, có tình có lý; đồng thời phản đối những bản án, quyết định chưa phù hợp. Áp lực từ dư luận xã hội sẽ khiến cho bản thân cán bộ, công chức tham gia hoạt động áp dụng PL phải luôn có ý thức điều chỉnh hành vi của mình tuân theo PL. VD vụ xe ô tô của hiệu trưởng trường trung học Nam Trung Yên đâm gãy chân học sinh đang chơi trong trường, sau đó đổ tội cho học sinh đó chạy nhảy bị gãy chân đã khiến dư luận lên tiếng và thủ phạm đã phải chịu sự trừng phạt mặc dù được bao che.

 

III. Các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hiện PL, áp dụng PL ở nước ta hiện nay

1. Các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hiện PL ở nước ta hiện nay

(chương VII, trang 341)

Gồm 03 biện pháp:

– Nâng cao ý thức PL, hình thành thói quen “sống và làm việc theo PL” trong các chủ thể PL

– Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục PL cho các tầng lớp nhân dân: đặc biệt là ứng dụng mạng Internet

– Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt động thực hiện PL: chủ yếu gồm các cơ quan công an, tòa án, viện kiểm sát, cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính

2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng PL ở nước ta hiện nay

(chương VIII, trang 379)

– Tăng cường giáo dục PL, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức NN có thẩm quyền áp dụng PL: nguyên nhân chính trong hạn chế, khiếm khuyết của hoạt động áp dụng PL là sự thiếu tri thức PL và yếu về kỹ năng nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức NN có thẩm quyền áp dụng PL. Việc tăng cường giáo dục PL cho đội ngũ cán bộ, công chức NN cần chú ý đến các khía cạnh: mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức

– Nâng cao ý thức PL nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức NN có thẩm quyền áp dụng PL

– Thông báo công khai kết quả áp dụng PL trên các phương tiện thông tin đại chúng: tạo ra sức mạnh lan tỏa, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự công bằng, nghiêm minh của PL. VD khi đưa tin về 1 vụ án, cần đưa đầy đủ thông tin, nhất là kết quả xét xử, bản án, kết quả thi hành án (kể cả việc thi hành án tử hình ở đâu, khi nào, bằng phương tiện gì)

 

——————-

Ngày 02/04/2017

Giảng viên: thầy Ngọ Văn Nhân (TS)

Vấn đề 7: Sai lệch chuẩn mực pháp luật và hiện tượng tội phạm

I. Lý thuyết sai lệch trong xã hội học pháp luật

1. Bản chất xã hội học của sự sai lệch

– Hành vi không đáp ứng sự mong đợi của cộng đồng người thì bị coi là “hành vi sai lệch”, hay hành vi bất bình thường.

– Tuy nhiên, không có khái niệm “hành vi bình thường” hay “hành vi sai lệch”, mà việc coi 1 hành vi là bình thường hay sai lệch hoàn toàn phụ thuộc vào lăng kính và lòng tin của cộng đồng người.

– Một hành vi là “sai lệch” hay “không sai lệch” mang tính xác định về không gian và môi trường. Cùng 1 hành vi nhưng trong cộng đồng này bị coi là sai lệch, nhưng trong cộng đồng khác lại không bị coi là sai lệch, và ngược lại. VD việc quan hệ tình dục trước hôn nhân được coi là bình thường ở rất nhiều nước, nhưng trong các nước Hồi giáo lại bị coi là “tội ác” và bị trừng phạt nghiêm khắc. VD đa thê là hành vi vi phạm PL ở hầu hết các nước trên thế giới, nhưng lại được coi là bình thường ở các nước Hồi giáo

– Hành vi là “sai lệch” hay “không sai lệch” ngay trong 1 cộng đồng người cũng có thể thay đổi theo thời gian. VD ngày trước phụ nữ ăn mặc “hở, khoe cơ thể” thì bị xã hội lên án là không đoan trang, nhưng hiện nay phụ nữ có thể ăn mặc thoải mái và được coi là khoe nét đẹp cơ thể.

– Tóm lại: Về mặt xã hội, hành vi sai lệch không thể được quan niệm như 1 cái gì tuyệt đối hay phổ biến, mà phải được coi như sự biến đổi về mặt xã hội tùy thuộc vào những gì mà 1 xã hội đặc thù hay 1 nhóm xã hội ở 1 thời điểm đặc thù, xác định là lệch lạc.

2. Thuyết dãn nhãn: sai lệch và tội phạm như là một sự dán nhãn

– Thuyết dãn nhãn: từ 1 hiện tượng suy ra bản chất, hành vi trong quá khứ của 1 người bị coi là đã chứa đựng trong đó “động cơ nham hiểm và lệch lạc”, còn hành vi trong tương lai được dự báo “không thay đổi, không bao giờ thay đổi”. VD 1 người bị kết án vì tội trộm cắp, trong tù anh ta cải tạo rất tốt và được giảm án ra tù sớm, khi ra tù trở về cộng đồng, anh ta cố gắng thể hiện mình là người thành thật, lương thiện nhưng vẫn bị gán nhãn “kẻ trộm cắp” và bị cộng đồng xa lánh, cảnh giác. Tuy nhiên chính sự xa lánh của cộng đồng lại nhanh chóng đẩy anh ta trở lại con đường trộm cắp, gây mất trật tự xã hội.

– Như vậy, việc dán nhãn hành vi là sai lệch, hay dán nhãn 1 người là tội phạm không những không có vai trò giảm bớt sự lệch lạc mà thực tế lại có thể sản sinh ra nhiều sự lệch lạc hơn

==> đây là 1 thuyết lạc hậu

II. Khái niệm về sai lệch chuẩn mực pháp luật

1. Định nghĩa về hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội

– Hành vi sai lệch chuẩn mực PL là hành vi của cá nhân, tổ chức vi phạm các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực PL.

Hành vi sai lệch chuẩn mực PL rất đa dạng, phong phú vì trong bất kỳ lĩnh vực PL nào cũng có những hành vi xâm phạm đến những nguyên tắc, quy định của nó. Trong đó hành vi vi phạm PL hình sự được coi là nghiêm trọng nhất, bị coi là hành vi phạm tội và phải chịu chế tài mạnh nhất là các hình phạt.

– Theo luật học, hành vi sai lệch chuẩn mực PL là hành vi vi phạm PL, và có 4 yếu tố cấu thành:

+ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi

+ trái pháp luật

+ có lỗi của chủ thể

+ chủ thể có năng lực pháp lý

– Dưới góc nhìn của luật pháp thì mọi hành vi sai lệch chuẩn mực PL đều là tiêu cực, đây là góc nhìn xơ cứng, giáo điều. Tuy nhiên dưới góc nhìn của xã hội học PL thì không phải hành vi sai lệch chuẩn mực PL nào cũng chỉ có mặt tiêu cực, mà có những hành vi dù sai lệch chuẩn mực PL nhưng lại có mặt tích cực, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

==> theo quan điểm của xã hội học PL thì không phải mọi hành vi sai lệch chuẩn mực PL đều là vi phạm PL

2. Phân loại hành vi sai lệch chuẩn mực PL

a. Căn cứ và nội dung, tính chất của các chuẩn mực PL bị xâm hại

Hành vi sai lệch chuẩn mực PL tích cực: là những hành vi (cố ý hoặc vô ý) vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực PL đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế xã hội hiện tại, gây cản trở sự phát triển tiến bộ của cộng đồng. Có 2 khả năng xảy ra hành vi sai lệch chuẩn mực PL tích cực:

+ sự thay thế của 1 NN mới cho 1 NN cũ, khi đó hệ thống PL cũ sẽ bị thay thế bằng hệ thống PL mới. Trong quá trình thay đổi đó thì hành vi sai lệch chuẩn mực PL cũ đã không còn phù hợp sẽ mang ý nghĩa tích cực, tiến bộ

+ có những quy phạm PL dù đang còn hiệu lực nhưng không còn phù hợp với với yêu acàu của thực tế cuộc sống, đòi hỏi NN phải sửa đổi hoặc bãi bỏ, khi đó việc 1 cá nhân, tổ chức vi phạm, chống lại các quy phạm PL đó là sự “gióng lên hồi chuông cảnh báo” để NN sửa đổi, thay đổi chúng ==> mang ý nghĩa tích cực. VD vào những năm 60 thế kỷ 20, bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc đã phá bỏ nguyên tắc sản xuất tập trung để khoán sản xuất cho người nông dân, mặc dù vi phạm PL nhưng mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn. VD: vụ án ông Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng chống lại chính quyền xã thu hồi đất do gia đình mình khai hoang, dù vi phạm PL, bị phạt tù (3 năm) nhưng đã cho thấy những bất cập của PL đất đai, và ngay sau đó Luật đất đai đã được sửa đổi để phù hợp với thực tế cuộc sống (khu đất của gia đình Đoàn Văn Vươn đã được cấp “Sổ đỏ” ngay khi ông Vươn vẫn còn ở trong tù, và hàng vạn gia đình khác trên cả nước có đất khai hoang, đất tái tạo cũng được cấp “Sổ đỏ” nhờ công của ông Đoàn Văn Vươn).

Hành vi sai lệch chuẩn mực PL tiêu cực: là những hành vi (cố ý hoặc vô ý) vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực PL hiện hành, có nội dung, tính chất phù hợp, tiến bộ, đang phổ biến, thịnh hành và được NN và cộng đồng xã hội thừa nhận. Đây chính là các hành vi vi phạm PL, như trộm cắp, hiếp dâm, vượt đèn đỏ, …

b. Căn cứ vào thái độ tâm lý chủ quan của người thực hiện

– Hành vi sai lệch chuẩn mực PL chủ động: là hành vi có ý thức, có tính toán, cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp) vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực PL, dù chuẩn mực PL đó đã lạc hậu, lỗi thời, hay còn đang tiến bộ, phù hợp. VD hành vi giết người luôn bị coi là lỗi cố ý (theo quy định của Bộ luật hình sự)

– Hành vi sai lệch chuẩn mực PL thụ động: là hành vi vô ý, không mong muốn vi phạm, phá vỡ tính ổn định, sự tác động của các chuẩn mực PL. VD tội vô ý làm chết người (trong Bộ luật hình sự)

c. Căn cứ đồng thời vào nội dung, tính chất của chuẩn mực PL và tâm lý chủ quan của người thực hiện

– Hành vi sai lệch chủ động – tích cực: là hành vi cố ý vi phạm, phá vỡ sự tác động của các chuẩn mực PL đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của  xã hội hiện tại. VD vụ việc ông Kim Ngọc (đã nêu trên), ông Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng

Câu hỏi trắc nghiệm: Hành vi sai lệch chuẩn mực PL chủ động – tích cực có tác động thúc đẩy sự phát triển tiến bộ, hoàn thiện PL. Đúng hay Sai ?

– Hành vi sai lệch chủ động – tiêu cực: là hành vi cố ý vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực PL hiện hành mang tính tiến bộ, phù hợp, đang phổ biến, thịnh hành và được NN, xã hội thừa nhận rộng rãi. VD hành vi giết người

– Hành vi sai lệch thụ động – tích cực: là hành vi vô ý vi phạm, phá vỡ sự tác động của chuẩn mực PL đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với yêu cầu của đời sống xã hội. VD trong vụ ông Kim Ngọc, với những người nông dân nghe theo ông Kim Ngọc ở tỉnh Vĩnh Phúc, họ đã không tuân theo PL, đây được coi là hành vi sai lệch thụ động – tích cực

– Hành vi sai lệch thụ động – tiêu cực: là hành vi vô ý vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực PL tiến bộ, phù hợp, đang phổ biến, thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội. VD tội vô ý giết người

3. Hậu quả của sai lệch chuẩn mực pháp luật

– Khi xem xét, đánh giá hậu quả của 1 hành vi sai lệch chuẩn mực PL nào đó, cần căn cứ vào các yếu tố:

+ căn cứ vào tính chất, khuynh hướng và sự phổ biến tương đối của hành vi sai lệch chuẩn mực PL đó

+ căn cứ vào các điều kiện lịch sử, địa lý, hoàn cảnh xã hội cụ thể

+ căn cứ vào địa điểm, thời gian xảy ra hành vi sai lệch chuẩn mực PL đó

– Theo những căn cứ trên, hậu quả của hành vi sai lệch chuẩn mực PL có thể được đánh giá trên 2 phương diện:

+ hậu quả của hành vi sai lệch chuẩn mực PL có thể mang nội dung, tính chất tích cực, tiến bộ, cách tân nếu như nó vi phạm, phá vỡ hiệu lực, sự chi phối của các chuẩn mực PL đã lạc hậu, lỗi thời, đang kìm hãm sự phát triển của xã hội ==> hành vi sai lệch chuẩn mực PL góp phần làm thay đổi nhận thức chung của cả cộng đồng, có tác động giống “hồi chuông cảnh báo” để NN sửa đổi, thay đổi PL cho phù hợp

+ ngược lại, hậu quả của hành vi sai lệch chuẩn mực PL có thể mang nội dung và tính chất tiêu cực, ảnh hưởng xấu hoặc nguy hiểm cho xã hội (là hành vi phạm tội) nếu nó vi phạm, phá hoại tính ổn định, sự tác động của những chuẩn mực PL tiến bộ, phù hợp, đang phổ biến, thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội ==> hành vi sai lệch chuẩn mực PL đó bị xã hội phê phán, lên án hoặc đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp trừng phạt theo các quy định của PL

 

III. Các yếu tố tác động tới sai lệch chuẩn mực pháp luật

  1. Hệ thống các giá trị
  2. Sự rối loạn các thiết chế xã hội
  3. Sự biến đổi của các chuẩn mực xã hội
  4. Sự thay đổi của các quan hệ xã hội

IV. Các cơ chế của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật

1. Sự không hiểu biết, hiểu biết không đúng, không chính xác các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực PL

– Trong trường hợp này, đa số các hành vi sai lệch chuẩn mực PL là do cá nhân, nhóm xã hội thiếu thông tin, kiến thức, hiểu biết về chuẩn mực PL, hoặc hiểu không đúng, không chính xác các quy tắc yêu cầu của chuẩn mực PL dẫn đến thực hiện những hành vi sai lệch chuẩn mực PL. VD hành vi tháo bu lông, đường ray của tàu hỏa để bán là hành vi phá hoại công trình quốc gia thì hầu hết là do thiếu hiểu biết PL

– Giải pháp phắc phục: các cơ quan chức năng cần phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền, phỏ biến, giáo dục PL một cách sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân

2. Tư duy diễn dịch không đúng, sự suy diễn các chuẩn mực PL thiếu căn cứ logic và sử dụng các phán đoán phi logic

– Khi tham gia vào lĩnh vực cụ thể, do thói quen suy diễn sai, sử dụng các phán đoán phi logic nên một số cá nhân nhầm lẫn; hoặc cố ý áp dụng chuẩn mực lĩnh vực PL này vào chuẩn mực PL lĩnh vực khác, do đó đã vi phạm các chuẩn mực PL đó.

VD pháp lệnh dân số 2003 quy định “vợ chồng có quyền quyết định thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp …”, và vì lý do nào đó mãi đến 9 tháng sau Chính phủ mới ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành, vì Nghị định ra muộn nên trong 9 tháng đó quy định của Pháp lệnh bị hiểu nhầm, suy diễn thành NN không hạn chế số con, và hệ quả là số người sinh con thứ 3 thứ 4 tăng vọt, vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình.

– Giải pháp khắc phục: khi xây dựng PL, các nhà làm luật cần cân nhắc sử dụng ngôn từ, thuật ngữ pháp lý, các quy phạm PL phải có bố cục chặt chẽ, rõ ràng và chính xác để tránh bị suy diễn sai và áp dụng sai.

3. Việc củng cố, tiếp thu các quy tắc, yêu cầu của những chuẩn mực PL đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với PL hiện hành

– Là việc cá nhân, nhóm xã hội do không biết, hoặc biết những vẫn cố tình thực hiện, áp dụng các chuẩn mực PL đã lạc hậu, lỗi thời, dẫn đến vi phạm chuẩn mực PL hiện hành.

VD những chuẩn mực từ thời phong kiến như trọng nam khinh nữ vẫn được 1 bộ phận xã hội cố tình áp dụng, dẫn tới việc cố gắng sinh bằng được con trai nên sinh vượt quá 2 con ==> vi phạm pháp luật dân số.

VD mặc dù đã có Nghị định hướng dẫn chi tiết Pháp lệnh dân số 2003, nhưng nhiều người vẫn cố tình viện dẫn Pháp lệnh dân số 2003 để sinh vượt số con cho phép (lý do của việc ra đời Pháp lệnh dân số 2003 là khi VN hội nhập quốc tế, không thể áp đặt việc sinh nở vì đó là vi phạm quyền con người, nên VN đã phải “hạ cấp” quy định về dân số kế hoạch hóa gia đình xuống cấp Nghị định)

– Giải pháp khắc phục: với những quy phạm PL tỏ ra lỗi thời lạc hậu, hoặc đã hết hiệu lực thì NN cần sớm thay đổi, bổ sung, hoặc tuyên bố chấm dứt hiệu lực của chúng 1 cách kịp thời, nhằm ngăn chặn, không tạo ra khe hở để kẻ xấu lợi dụng.

4. Cơ chế đi từ quan niệm sai lệch tới việc thực hiện hành vi sai lệch chuẩn mực PL

– Là việc những quan niệm từ thời phong kiến, thực dân vẫn được một số cá nhân, nhóm xã hội áp dụng dẫn tới vi phạm chuẩn mực PL hiện hành. VD như quan niệm “phép vua thua lệ làng” trong thời phong kiến, nếu áp dụng vào thời nay rất có thể sẽ dẫn tới hành vi vi phạm chuẩn mực PL, như việc lệ làng quy định “phụ nữ không chồng mà chửa” bị trừng phạt rất nghiêm khắc, bị sỉ nhục, nhưng trong thời hiện nay nếu áp dụng như vậy sẽ bị coi là xúc phạm nhân phẩm người khác, thậm chí bị khép tội Làm nhục người khác, vì luật pháp hiện nay cho phép phụ nữ sinh con không cần kết hôn, khai sinh cho con chỉ cần người mẹ.

– Giải pháp khắc phục: NN cần có biện pháp định hướng, giải thích, điều chỉnh những quan niệm sai lệch để kịp thời ngăn chặn những hành vi phạm pháp

5. Các khuyết tật về tâm sinh lý dẫn tới hành vi sai lệch chuẩn mực PL

– Có những cá nhân do dị tật bẩm sinh hoặc tai nạn mắc phải khiến họ mang trên mình những khuyết tật nhất định về tâm sinh lý (có thể khuyết tật về thể chất như mù, câm, điếc, què, cụt tay ; hoặc khuyết tật về trí lực như tâm thần, rối loạn, hoang tưởng, …) làm cá nhân đó bị mất đi 1 phần hoặc toàn bộ khả năng nhận biết về các yêu cầu của chuẩn mực PL, dẫn đến vi phạm chuẩn mực PL mà không biết hoặc không thể kiềm chế, kiểm sát bản thân.

VD: người mắc bệnh mù màu khi tham gia giao thông sẽ không phân biệt được đèn xanh, đèn đỏ ==> rất dễ vi phạm luật giao thông

VD: người mắc bệnh hoang tưởng lên máy bay, hét lên rằng “máy bay có bom” gây ảnh hưởng đến an toàn bay

6. Cơ chế về mối liên hệ nhân quả giữa các hành vi sai lệch chuẩn mực PL

– Là trường hợp cá nhân đi từ việc thực hiện 1 hành vi sai lệch chuẩn mực PL này tới việc thực hiện 1 hành vi sai lệch chuẩn mực PL khác theo mối liên hệ nhân – quả mà không biết, hoặc biết mà vẫn cố tình thực hiện. Trong đó hành vi sai lệch thứ nhất được coi là nguyên nhân dẫn tới hành vi sai lệch thứ hai, và từ hành vi sai lệc thứ hai lại có thể là nguyên nhân dẫn đến hành vi sai lệch thứ ba, …

VD: một thanh niên vượt đèn đỏ (hành vi sai lệch thứ nhất) bị cảnh sát giao thông giữ lại, vì không muốn nộp phạt nên đã đưa tiền hối lộ chiến sỹ cảnh sát giao thông (hành vi sai lệch thứ hai), bị chiến sỹ cảnh sát giao thông từ chối nên đã quay sang xúc phạm, lăng mạ, hành hung chiến sỹ cảnh sát giao thông (hành vi sai lệch thứ ba)

 

V. Hiện tượng tội phạm

(tập Bài giảng xã hội học, trang 153)

1. Khái niệm hiện tượng tội phạm

– Hiện tượng tội phạm là khái niệm không dùng để chỉ tội phạm nói chung hay hành vi phạm tội cụ thể, mà phản ánh ở mức độ nhận thức cao hơn, khái quát hơn xung quanh vấn đề tội phạm.

– Khái niệm: Hiện tượng tội phạm là 1 hiện tượng xã hội – pháp lý luôn ở trạng thái động, xuất hiện trong xã hội có giai cấp, là thể thống nhất các tội phạm xảy ra trong xã hội nhất định và ở thời kỳ nhất định, có các nguyên nhân, các đặc điểm định lượng (thực trạng) và định tính (tính chất, cơ cấu) của nó, đồng thời có tính độc lập tương đối.

2. Các đặc trưng cơ bản của hiện tượng tội phạm

a. Tính quyết định xã hội của hiện tượng tội phạm

– Hiện tượng tội phạm trước hết là hiện tượng xã hội, có quá trình hình thành, phát sinh và phát triển cùng với sự vận động của xã hội.

– Hiện tượng tội phạm chỉ có thể xuất hiện, tồn tại trong xã hội, có nguồn gốc từ thực tiễn đời sống xã hội, mang nội dung xã hội, có nguyên nhân từ xã hội và chịu sự quyết định bởi thực tế xã hội.

VD ở nước ta, trước khi có thị trường chứng khoán thì không có tội phạm liên quan đến chứng khoán, chỉ khi thị trường chứng khoán xuất hiện thì các hành vi như tung tin đồn, lừa đảo chiếm đoạt tài khoản của nhà đầu tư, … mới xuất hiện

– Mặt khác, hiện tượng tội phạm mang tính quyết định xã hội vì nó được hình thành và xuất phát từ những hành vi phạm tội được thực hiện bởi những cá nhân – là thành viên của xã hội

b. Tính pháp lý hình sự của hiện tượng tội phạm

– Hiện tượng tội phạm còn là hiện tượng pháp lý và mang tính pháp lý hình sự: Chúng ta không thể phán xét, đánh giá về hành vi phạm tội một cách cảm tính mà cần phải căn cứ vào những nguyên tắc, quy định của PL hình sự. Trong hệ thống PL chỉ có duy nhất Luật hình sự quy định về tội phạm và hình phạt, đưa ra khái niệm tội phạm, theo đó tội phạm không chỉ là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà còn là hành vi trái với PL hình sự

c. Tính biến đổi về mặt lịch sử của hiện tượng tội phạm

– Hiện tượng tội phạm luôn ở trạng thái động, tức là thường xuyên biến đổi qua các giai đoạn, thời kỳ lịch sử nhất định. Nguyên nhân là do các quan điểm, quan niệm về tội phạm có sự thay đổi theo lịch sử.

VD trong Luật hình sự 1985 có chia tội phạm làm 2 loại là tội phạm ít nguy hiểm (phạt tù đến 5 năm) và tội phạm nguy hiểm (phạt tù từ 3 năm trở lên tới chung thân, tử hình), việc để khung hình phạt quá rộng dẫn tới nhiều hiện tượng tiêu cực trong việc áp dụng PL, và đến khi ban hành Luật hình sự 1999 thì tội phạm được chia làm 4 loại là ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, và đặc biệt nghiêm trọng.

d. Tính giai cấp của hiện tượng tội phạm

– Hiện tượng tội phạm chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp, gắn liền với sự ra đời của NN và quá trình phân tầng xã hội.

– PL là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Xuất phát từ nhu cầu bảo vệ các giá trị, lợi ích của giai cấp mình mà giai cấp thống trị đề ra chính sách PL hình sự, trong đó quy định những hành vi nào là tội phạm, tính chất và mức độ của mỗi loại tội phạm, đối tượng nào phải chịu hình phạt, đối tượng nào không phải chịu hình phạt,… ==> tính giai cấp của hiện tượng tội phạm

e. Tính xác định theo không gian và thời gian của hiện tượng tội phạm

– Theo không gian: thông thường hiện tượng tội phạm xác định theo lãnh thổ quốc gia. Chú ý rằng cùng 1 hành vi có thể ở quốc gia này bị coi là tội phạm, nhưng ở quốc gia khác lại không bị coi là tội phạm; hoặc cùng 1 tội ở quốc gia này coi là ít nghiêm trọng, nhưng ở quốc gia khác lại coi là đặc biệt nghiêm trọng.

VD tội đánh bạc ở VN bị coi là tội phạm, nhưng ở Macau lại coi là hợp pháp; môi giới mại dâm là tội phạm ở VN, nhưng lại hợp pháp ở Thái Lan

– Theo thời gian: hiện tượng tội phạm có sự theo đổi theo thời gian trong cùng 1 quốc gia.

3. Các mô hình nghiên cứu xã hội học về hiện tượng tội phạm

a. Mô hình nghiên cứu theo phân loại các nhóm tội phạm

– Căn cứ vào quan hệ xã hội được PL hình sự bảo vệ bị xâm hại bởi tội phạm, gồm:

+ nhóm tội phạm quốc sự: xâm phạm an ninh quốc gia, có tính chất đặc biệt nguy hiểm. VD tội phản bội tổ quốc, tội hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân, tội bạo loạn

+ nhóm tội phạm kinh tế: xâm phạm chế độ kinh tế, sở hữu NN, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. VD tội buôn lậu, tội sản xuất, buôn bán hàng giả, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, các tội tham nhũng

+ nhóm tội hình sự: xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; xâm phạm sở hữu, các quyền tự do dân chủ của công dân; xâm phạm an toàn công cộng, … VD tội giết người, tội bức tử, tội cướp tài sản, tội hiếp dâm

+ nhóm tội phạm thuộc tệ nạn xã hội: xâm hại truyền thống văn hóa, đạo lý dân tộc, thuần phong mỹ tục, xâm phạm niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng. VD tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, các tội phạm về môi trường, các tội phạm về ma túy, mại dâm

+ nhóm tội phạm vi phạm Hiến pháp: xâm phạm đến các nguyên tắc và quy định của Hiến pháp. VD tội ban hành văn bản PL trái với Hiến pháp

+ nhóm tội phạm có tổ chức (mafia): đây là nhóm tội phạm đặc biệt nguy hiểm, có tính liên kết và tổ chức rất cao, có 3 đặc điểm sau:

  • Xâm hại tới tính mạng với tính chất đặc biệt nghiêm trọng và tài sản với khối lượng lớn
  • Có sự cấu kết, liên hệ chặt chẽ với những người có chức vụ, quyền lực cao trong bộ máy NN
  • Sử dụng các đối tượng phạm pháp hình sự chuyên nghiệp làm công cụ để gây án

b. Mô hình nghiên cứu định lượng về hiện tượng tội phạm

–  Là mô hình cho phép chia ra mức độ, tình trạng thực tế của hiện tượng tội phạm, nghiên cứu thông qua các chỉ báo sau:

+ chỉ báo về mối tương quan giữa số lượng các tội phạm đã được khai báo bởi người bị hại với cơ quan chức năng và số lượng các tội phạm được cơ quan chức năng phát hiện (tội phạm rõ)

+ chỉ báo về số lượng các tội phạm đã xảy ra trong thực tế nhưng không được người bị hại khai báo với các cơ quan chức năng, hoặc không được cơ quan chức năng phát hiện (gọi là tội phạm ẩn giấu)

==> 2 chỉ báo trên cho phép đánh giá tính tự giác trong ý thức PL của nhân dân đối với tội phạm, và đánh giá hiệu quả công việc của cơ quan chức năng trong phòng chống tội phạm: nếu chỉ báo về số lượng tội phạm được người bị hại khai báo cao chứng tỏ người dân có tính tự giác cao trong việc khai báo tội phạm, tin tưởng vào cơ quan chức năng, đồng thời công việc của cơ quan chức năng cũng rất tốt. Ngược nếu nếu chỉ báo tội phạm ẩn giấu cao thì chứng tỏ người dân có tâm lý sợ hãi tội phạm, hoặc không tin tưởng cơ quan chức năng

+ chỉ báo về số lượng các tội phạm đã xảy ra so với số lượng dân cư trên địa bàn nhất định (thường tính trên 100.000 dân) ==> cho phép đánh giá về tình hình, diễn biến tội phạm trên địa bàn, từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa hiệu quả

+ chỉ báo về tỷ trọng giữa tội phạm ít nghiêm trọng so với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng so với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng ==> nếu tỷ trọng tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng cao sẽ là điều rất đáng lo ngại

– Nghiên cứu về định lượng cho ta bức tranh tổng thể về hiện tượng tội phạm. Thực tế cho thấy, không chỉ ở VN mà ở tất cả các quốc gia trên thế giới, tỷ lệ tội phạm ẩn giấu luôn cao hơn nhiều so tội phạm rõ (như phần chìm so với phần nổi của tảng băng trôi). Tỷ lệ giữa tội phạm ẩn giấu so với tội phạm rõ ở các tội phạm khác nhau thì khác nhau: có những tội phạm có tỷ lệ ẩn giấu rất thấp như tội giết người, cướp giật; có những tội phạm có tỷ lệ ẩn giấu cao như tội phạm về ma túy, tham nhũng, hiếp dâm

c. Mô hình nghiên cứu định tính

– Cho phép xem xét tính chất, cơ cấu, quá trình vận động và biến đổi của hiện tượng tội phạm trong không gian và thời gian nhất định:

+ tính chất của hiện tượng tội phạm: là tính nguy hiểm cho xã hội, tức là nó gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp rất lớn, rất đáng kể cho xã hội. Tính chất của hiện tượng tội phạm còn thể hiện ở các đặc điểm phức tạp của nhân thân người phạm tội.

+ cơ cấu của hiện tượng tội phạm: được phản ánh qua các chỉ số về mối tương quan của các loại tội phạm khác nhau (như giữa các tội phạm cố ý / vô ý, tội phạm tái phạm, tội phạm chuyên nghiệp, tội phạm có tổ chức)

+ sự vận động và biến đổi của hiện tượng tội phạm: hiện tượng tội phạm không bất biến mà có quá trình diễn biến, có sự vận động, biến đổi khác nhau

– Nghiên cứu các đặc điểm, dấu hiệu định tính của hiện tượng tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sáng tỏ các nguyên nhân của hiện tượng tội phạm

c. Mô hình nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo khu vực địa lý, theo lứa tuổi và giới tính, theo sự phân tầng xã hội

– Nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo khu vực địa lý: là sự phân tích theo cơ cấu-lãnh thổ, theo đó thường chia thành khu vực đô thị và khu vực nông thôn. Tại phần lớn các xã hội thì tỷ lệ tội phạm ở khu vực đô thị thường cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn. Có nhiều nguyên nhân:

+ kiến trúc không gian đô thị vô tình tạo môi trường thuận lợi cho tội phạm hoạt động (vì tập trung nhiều đường phố, cửa hàng, siêu thị, nhà kho, bến bãi, phương tiện giao thông, …), còn kiến trúc không gian sống nông thôn không thuận lợi cho tội phạm hoạt động

+ do lối sống đô thị thiếu tình người so với lối sống cộng đồng ở nông thôn. Thành phần dân cư đô thị hỗn tạp, mật độ cao nên tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm hoạt động; trong khi ở nông thôn thành phần dân cư tương đối thuần nhất, mật độ thấp nên gây khó khăn cho hoạt động tội phạm

+ do cơ cấu kinh tế ở đô thị đa dạng, phong phú, nhưng sự kiểm soát xã hội nhìn chung là lỏng lẻo; ngược lại ở nông thôn cơ cấu kinh tế rất ít đa dạng và sự kiểm soát xã hội (của chính quyền) chặt chẽ hơn nhiều

– Nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo lứa tuổi và giới tính: nhìn chung tội phạm ở nam giới luôn cao hơn ở nữ giới và cao hơn cả ở trong tương quan của mỗi loại tội phạm cụ thể. Có những tội phạm gần như chỉ có ở nam giới như tội hiếp dâm, tội quấy rối tình dục. Có những tội phạm mà nữ giới hầu như không phạm phải, như tội hiếp dâm trẻ em.

Xét theo cơ cấu lứa tuổi, tỷ lệ tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên có xu hướng gia tăng, trong khi ở độ tuổi trung niên và tuổi già thì tỷ lệ tội phạm lại giảm rõ rệt.

– Nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo sự phân tầng xã hội: là sự phân tích theo cơ cấu – giai cấp, theo đó ở tầng lớp bình dân, người nghèo thường có tỷ lệ phạm tội cao hơn. Ngoài ra con em của người nghèo còn có nguy cơ vi phạm PL cao hơn do phải thường xuyên tiếp xúc với môi trường tội phạm

 

VI. Một số hiện tượng hành vi sai lệch có tính nguy hiểm cao cho xã hội

1. Nghiện ma túy

– Nghiện ma túy là căn bệnh xã hội nguy hiểm, gây ra tác hại khon lường cho xã hội, là biểu hiện của hành vi sai lệch nghiêm trọng. Tác hại của nghiện ma túy thể hiện ở việc phá hủy sức khỏe người nghiện, hủy hoại nhân cách người nghiện (thường thấy cuộc đời bế tắc, cư xử tiêu cực, bi quan, sống gấp, …), gây khánh kiệt kinh tế, phá vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng xấu đến an tinh trật tự, tạo gánh nặng cho xã hội.

– Mặc dù nghiện hút ma túy đã không còn bị coi là tội phạm nhưng nghiện hút ma túy thường là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, như cướp giật, trộm, …

2. Say rượu

– Là một trạng thái tinh thần bệnh hoạn, hình thành do kết quả của việc sử dụng quá nhiều rượu. Hậu quả là người nghiện rượu tạo hình ảnh bê tha, nhếch nhác, tự hạ thấp nhân cách của mình, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động lao động, gây tốn kém về tiền bạc. Mặt khác, nghiên rượu còn làm cho người say mất đi năng lực kiềm chế, năng lực điều chỉnh, kiểm soát hành vi, dẫn tới dễ bị kích động và dẫn tới phạm tội.

– Say rượu thường là nguyên nhân gây ra các vụ tai nạn giao thông, bạo lực gia đình, ảnh hưởng đến an ninh trật tự. Luật hình sự quy định Người phạm tội do say rượu thì không được miễn trách nhiệm hình sự

3. Côn đồ, càn quấy (Hooligan)

– Là những hành vi sai lệch có tính chất hung hãn, côn đồ, quậy phá, ẩu đả, chống đối xã hội, thường do những kẻ lưu manh, quá khích thực hiện.

– Thường xảy ra trong lĩnh vực thể thao, kinh doanh, xây dựng, … Trong Luật hình sự có quy định các tội như Tội tổ chức đua xe trái phép, Tội đua xe trái phép, Tội gây rối trật tự công cộng, Tội chống người thi hành công vụ

4. Tự tử

– Là hành vi sai lệch bộc lộ rõ nét nhất thái độ tiêu cực của cá nhân bằng việc tự loại bỏ cuộc sống của chính mình.

– Nguyên nhân của tự tử có thể do chủ quan (chán sống), nhưng đa phần là do các nguyên nhân xã hội như thất tình, thất nghiệp, nghèo khổ, khủng hoảng tinh thần, đánh mất niềm tin vào cuộc sống, mê tín dị đoan, …

– Tự tử có thể gây ra những hậu quả xã hội to lớn, VD để lại món nợ, gây tâm lý tiêu cực cho người thân

– Có 3 loại tự tử:

+ tự tử vì ích kỷ: là loại phổ biến nhất, là kết quả của “chủ nghĩa cá nhân thái quá”

+ tự tử vị tha: xảy ra khi cá nhân hoàn toàn bị ngập vào trong nhóm xã hội. VD người vợ tự tử khi chồng chết trong một số xã hội

+ tự tử vô tổ chức: xảy ra khi diễn ra một tình thế “vô tổ chức” khiến các thành viên xã hội mất đi cái trật tự tiêu chuẩn. VD khủng hoảng kinh tế khiến nhiều người tự tử (thường là doanh nhân, nhà đầu tư thua lỗ)

5. Sự tha hóa về đạo đức

– Là sự thoái hóa về nhân cách, phẩm chất và đạo đức con người. Thường xảy ra ở những người có quan niệm sai lệch, thái độ lệch lạc, hành vi coi thường các giá trị truyền thống, thuần phong mỹ tục, và do đó tự đánh mất lương tâm, danh dự, nhân phẩm của chính mình; buông thả mình theo lối sóng phóng túng, trụy lạc và thực dụng

– Sự tha hóa về đạo đức rất gần với hành vi phạm pháp. Để thỏa mãn các nhu cầu bất chính, con người tha hóa có thể sẵn sàng tham gia các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy, cờ bạc, hoặc sẵn sàng buôn lậu, làm ăn gian dối, tham ô tài sản ==> đây lại là các loại tội phạm ẩn có mức độ nguy hiểm cho xã hội rất cao, rất khó phòng chống.

 

VII. Các biện pháp phòng, chống sai lệch chuẩn mực pháp luật

1. Biện pháp tiếp cận thông tin

– Có tác dụng nâng cao nhận thức, hiểu biết PL của con người

– Gồm các khía cạnh:

+ nếu vi phạm PL do nguyên nhân người vi phạm không biết, không hiểu PL ==> cơ quan chức năng phải tiến hành các hoạt động giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích PL

+ nếu ý thức, thái độ của cá nhân, nhóm xã hội đối với các chuẩn mực PL còn mang tính lệch lạc, xem nhẹ ==> cơ quan chức năng cần giáo dục, định hướng để họ hiểu đúng và chấp hành PL

+ cung cấp thông tin cần đầy đủ, chính xác

+ chú trọng nâng cao uy tín của hệ thống PL: PL cần công bằng và nghiêm minh để mọi tầng lớp nhân dân tin tưởng thực hiện. Cần đặc biệt chú ý tính công bằng và nghiêm minh trong quá trình thực hiện và áp dụng PL của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền

+ cần cảnh giác, tích cực đấu tranh với những thông tin sai trái, những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của những thế lực thù địch

2. Biện pháp phòng ngừa xã hội

– Đây là biện pháp phòng chống sai lệch chuẩn mực xã hội có hiệu quả cao nhất. Theo đó sẽ tìm hiểu, phát hiện, làm sáng tỏ những nguyên nhân, điều kiện dẫn tới hành vi sai lệch chuẩn mực để từ đó đề xuất phương hướng, biện pháp phòng ngừa cụ thể

– Phòng ngừa xã hội là tổng thể các biện pháp tác động về mặt xã hội (tác động về kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hóa, pháp luật, đạo đức, …) mà NN và xã hội áp dụng nhằm loại trừ các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh hành vi sai lệch chuẩn mực PL

– Hai cấp độ phòng ngừa:

+ phòng ngừa chung: nhằm loại trừ sai lệch chuẩn mực PL nói chung

+ phòng ngừa chuyên ngành: đi sâu vào ngăn ngừa những loại hành vi sai lệch PL cụ thể, nhất là phòng ngừa hình sự

3. Biện pháp áp dụng hình phạt

– Là việc truy tố, xét xử và buộc kẻ phạm tội phải chịu 1 hình phạt nhất định. Có 2 ý nghĩa:

+ trừng trị kẻ phạm tội, cải tạo, cảm hóa họ để họ trở lại con đường hướng thiện

+ giáo dục, răn đe, ngăn ngừa người khác có ý định phạm tội

– Trong Luật hình sự, có 2 nhóm hình phạt:

+ hình phạt chính: phạt tù, tử hình, …

+ hình phạt bổ sung: phạt tiền, cấm giữ chức vụ, …

4. Biện pháp tiếp cận y – sinh học

– Nhằm tìm hiểu người phạm tội có bị khuyết tật về thể chất hay tâm lý không, nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của hành vi sai lệch

5. Biện pháp tiếp cận tổng hợp

– Là biện pháp gồm các nội dung cụ thể sau:

+ cần nhận thức rõ công tác phòng chống sai lệch chuẩn mực không phải là nhiệm vụ của riêng cơ quan nào, mà là của toàn xã hội

+ củng cố các nguyên tắc đạo đức gắn liền với sự tôn trọng người có thẩm quyền khi họ thực hiện công việc, đồng thời cơ quan chức năng cũng cần có thái độ trân trọng đúng mức đối với các nhu cầu, đòi hỏi chính đáng của người dân

+ giáo dục các giá trị văn hóa PL, giá trị đạo đức truyền thống, xây dựng và phổ biến lối sống lành mạnh, tiến bộ, đề cao nguyên tắc pháp chế trên cơ sở công bằng, dân chủ, văn minh

+ mở rộng các loại hình vui chơi, giải trí lành mạnh, tiến bộ cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên

+ cải tiến, đổi mới công tác giáo dục PL trong hệ thống nhà trường từ phổ thông đến đại học. Mở rộng hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giải thích PL trong các tầng lớp nhân dân

+ thông tin đầy đủ, chi tiết trên các phương tiện thông tin đại chúng những vụ việc xử lý tội phạm để nhân dân tin tưởng và sự nghiêm minh và công bằng của PL. Đồng thời thường xuyên tổ chức thăm dò dư luận xã hội đối với những vấn đề cụ thể của cuộc sống để có phương hướng điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung PL

+ dựa trên cơ sở các dự báo và diễn biến của tình hình tội phạm để xây dựng các kế hoạch đấu tranh có hiệu quả đối với từng loại tội phạm

+ trong bối cảnh hội nhập ngày nay, việc phòng chống tội phạm cần được mở rộng sự hợp tác quốc tế, như tham gia Interpol, AseanPol

 

Một số câu hỏi thi (thầy Nhân đã nhắc trên lớp):

– Trình bày các hình thức thực hiện PL, cho ví dụ cụ thể ?

– Trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng PL, cho ví dụ cụ thể ?

– Trình bày các cơ chế thực hiện PL, cho ví dụ cụ thể ?

– Trình bày yếu tố kinh tế có ảnh hưởng đến việc thực hiện PL, cho ví dụ cụ thể ?

– Trình bày yếu tố chính trị có ảnh hưởng đến việc thực hiện PL, cho ví dụ cụ thể ?

– Trình bày yếu tố văn hóa, lối sống có ảnh hưởng đến việc thực hiện PL, cho ví dụ cụ thể ?

– Trình bày yếu tố pháp luật có ảnh hưởng đến việc thực hiện PL, cho ví dụ cụ thể ?

– Trình bày nội dung cơ bản của hiện tượng tội phạm, cho ví dụ ?

– Trình bày mô hình nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo phân loại nhóm tội phạm, cho ví dụ ?

– Trình bày mô hình nghiên cứu định lượng và mô hình nghiên cứu định tính về hiện tượng tội phạm.

– Trình bày mô hình nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo khu vực địa lý, theo lứa tuổi và giới tính, theo sự phân tầng xã hội

– Trình bày các hiện tượng sai lệch có tính nguy hiểm cao cho xã hội

– Trình bày các biện pháp phòng chống sai lệch chuẩn mực PL

Gửi phản hồi